Với hai mươi tư giờ một ngày, cố nhớ những giây phút vốn là phép màu và thiêng liêng đó trong cuộc đời của bạn. Nhớ lại vài thời khắc đó và cố biến chúng thành nền tảng cuộc đời của bạn.

Bạn sẽ thấy rằng những gì bạn nhớ tới dường như diễn ra thường xuyên hơn và rằng điều bạn luôn mong đợi sẽ bắt đầu xuất hiện khắp nơi xung quanh bạn. Và rồi thế giới sẽ xuất hiện dưới ánh sáng khác hoàn toàn.

Hiển thị các bài đăng có nhãn Dũng cảm. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Dũng cảm. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 1 tháng 1, 2017

Osho - Dũng cảm – Vui sống hiểm nguy

Chương 1. Dũng cảm là gì?

Osho - Dũng cảm – Vui sống hiểm nguy
Chương 1. Dũng cảm là gì?


Ngay chỗ đầu tiên không có khác biệt nhiều giữa người hèn nhát và người dũng cảm. Khác biệt duy nhất là, người hèn nhát nghe theo nỗi sợ của mình và tuân theo chúng, còn người dũng cảm gạt chúng sang bên và tiến lên trước. Người dũng cảm đi vào trong cái không biết mặc cho mọi sợ hãi.
Dũng cảm nghĩa là đi vào cái không biết mặc cho mọi sợ hãi. Dũng cảm không có nghĩa là vô sợ hãi. Vô sợ hãi xảy ra nếu bạn cứ dũng cảm và ngày một dũng cảm hơn. Đó là kinh nghiệm tối thượng về dũng cảm - vô sợ hãi; đó là hương thơm khi dũng cảm đã trở thành tuyệt đối. Nhưng ngay lúc ban đầu không có mấy khác biệt giữa người hèn nhát và người dũng cảm. Khác biệt duy nhất là, người hèn nhát nghe theo nỗi sợ của mình và tuân theo chúng còn người dũng cảm gạt chúng sang bên và tiến lên trước.
Người dũng cảm đi vào trong cái không biết mặc cho mọi nỗi sợ. Người đó biết nỗi sợ, nỗi sợ có đó.
Khi bạn đi vào vùng biển còn chưa được thám hiểm, như Columbus đã làm, có sợ, sợ lắm, bởi vì người ta chẳng bao giờ biết cái gì sẽ xảy ra. Bạn đang rời bỏ bến bờ an toàn. Bạn đã hoàn toàn ổn thoả, theo cách nào đó; chỉ một điều bị lỡ - cuộc phiêu lưu. Đi vào cái không biết cho bạn niềm xúc động. Trái tim bắt đầu đập rộn ràng; bạn lại sống động, tràn đầy sống động. Từng thớ thịt của con người bạn đều sống động bởi vì bạn đã chấp nhận thách thức của cái không biết.
Chấp nhận thách thức của cái không biết, mặc mọi nỗi sợ, là dũng cảm. Nỗi sợ có đó, nhưng nếu bạn cứ chấp nhận thách thức lặp đi lặp lại, dần dần nỗi sợ đó biến mất. Kinh nghiệm về niềm vui mà cái không biết đem tới, cực lạc lớn lao bắt đầu xảy ra với cái không biết, làm cho bạn đủ mạnh, cho bạn sự toàn vẹn nào đó, làm cho thông minh của bạn sắc bén. Lần đầu tiên bạn bắt đầu cảm thấy rằng cuộc sống không chỉ là chán chường mà là cuộc phiêu lưu. Thế thì dần dần sợ biến mất; thế thì bạn bao giờ cũng tìm và kiếm cuộc phiêu lưu nào đó.
Nhưng về cơ bản dũng cảm là mạo hiểm cái biết vì cái không biết, mạo hiểm cái quen thuộc vì cái không quen thuộc, mạo hiểm cái thuận tiện vì cái không thuận tiện, làm cuộc hành hương gian nan tới đích không biết nào đó. Người ta chẳng bao giờ biết liệu mình có khả năng làm được điều đó hay không. Đó là hành động mạo hiểm, nhưng chỉ những người mạo hiểm mới biết cuộc sống là gì.

Chương 2. Đạo của dũng cảm

Osho - Dũng cảm – Vui sống hiểm nguy
Chương 2. Đạo của dũng cảm


Cuộc sống không nghe theo logic của bạn; nó cứ đi theo cách riêng của nó, không bị xáo trộn. Bạn phải lắng nghe cuộc sống; cuộc sống sẽ không nghe theo logic của bạn, nó không bận tâm về logic của bạn.
Khi bạn đi vào cuộc sống, bạn thấy gì? Cơn bão lớn kéo tới, và cây lớn đổ nhào. Chúng đáng phải tồn tại chứ, theo Charles Darwin, bởi vì chúng sung sức nhất, mạnh nhất, hùng mạnh nhất. Nhìn cây cổ thụ, cao chín chục mét, ba nghìn tuổi. Chính sự hiện diện của cây này tạo ra sức mạnh, cho cảm giác vững mạnh và hùng mạnh. Hàng triệu rễ đã lan toả bên trong đất, ăn sâu, và cây đang đứng với sức mạnh. Tất nhiên cây tranh đấu - nó không muốn chịu thua, không muốn đầu hàng - nhưng sau cơn bão nó đã đổ, nó chết, nó không còn sống nữa và tất cả sức mạnh đó đã mất rồi. Cơn bão quá mạnh - cơn bão bao giờ cũng quá mạnh, bởi vì cơn bão tới từ cái toàn thể còn cây chỉ là một cá nhân.
Thế rồi có những thực vật nhỏ hay cỏ thường - khi bão tới cỏ nhún nhường, và bão chẳng thể gây hại gì cho nó được. Nhiều nhất nó có thể làm cho cỏ được lau sạch, có thế thôi; mọi bụi bẩn đã tụ tập trên cỏ đều bị quét sạch. Cơn bão cho cỏ tắm táp sạch sẽ, và khi bão tan những thực vật nhỏ và cỏ lại vươn cao nhảy múa. Cỏ gần như không có rễ, nó có thể bị đứa trẻ nhỏ nhổ lên, nhưng cơn bão chịu thua. Điều gì đã xảy ra?
Cỏ đã theo cách thức của Đạo, cách thức của Lão Tử, còn cây lớn theo Charles Darwin. Cây lớn rất logic: nó cố gắng kháng cự, nó cố gắng biểu lộ sức mạnh của mình. Nếu bạn cố gắng biểu lộ sức mạnh của mình, bạn sẽ bị thất bại. Mọi Hitler, mọi Napoleon, mọi Alexander đều là những cây lớn, cây khoẻ. Họ tất cả đều bị thất bại. Lão Tử giống hệt thực vật nhỏ: không ai có thể đánh bại được chúng bởi vì chúng bao giờ cũng sẵn sàng nhường. Làm sao bạn có thể đánh bại được người nhường nhịn, người nói, "Tôi đã thất bại rồi," người nói, "Thưa ngài, ngài cứ tận hưởng chiến thắng đi, không có nhu cầu tạo ra bất kì rắc rối nào. Tôi thất bại." Ngay cả một Alexander cũng sẽ cảm thấy vô tích sự trước Lão Tử, ông ta không thể làm được gì. Điều đó đã xảy ra; nó đã xảy ra đích xác giống điều đó...
Một sannyasin, một nhà huyền môn, tên là Dandamis, sống vào thời Alexander, vào những ngày Alexander ở Ấn Độ. Bạn bè đã nói với Alexander khi ông ấy đi Ấn Độ rằng khi quay về ông ấy nên đem theo một sannyasin, bởi vì bông hoa hiếm hoi đó chỉ nở ở Ấn Độ. Họ nói, "Xin đem về một sannyasin. Ngài sẽ đem về nhiều thứ nhưng đừng quên đem về một sannyasin; chúng tôi muốn xem hiện tượng sannyasin này, nó là gì, một sannyasin đích xác là gì."
Ông ta hăm hở trong chiến trận và tranh đấu và chiến đấu đến mức gần như quên bẵng về điều đó nhưng khi ông ta quay về, ngay ở biên giới Ấn Độ, ông ta chợt nhớ ra. Ông ta đang sắp rời khỏi ngôi làng cuối cùng nên ông ta bảo lính vào làng và điều tra xem liệu có sannyasin quanh đâu đó không. Cũng tình cờ mà Dandamis lại có trong làng này, bên bờ sông, và mọi người nói, "Ngài đã hỏi đúng lúc đấy, ngài đã tới đúng lúc đấy. Có nhiều sannyasin nhưng một sannyasin thực thụ thì bao giờ cũng hiếm lắm, và ông ấy đang ở đây bây giờ. Ngài có thể có buổi chuyện trò thân mật, ngài có thể đi tới thăm ông ấy." Alexander cười. Ông ta nói, "Ta ở đây đâu phải để chuyện trò thân mật làm gì, lính của ta sẽ tới và bắt ông ta tới. Ta sẽ đem ông ta về kinh đô nước ta."
Dân làng nói, "Sự việc không dễ dàng vậy đâu..."
Alexander không thể tin được vào điều đó - có thể có khó khăn nào được? Ông ta đã chinh phục các hoàng đế, những vị vua lớn, cho nên với kẻ ăn xin, một sannyasin, khó khăn nào có thể có đó được? Lính của ông ta tới gặp Dandamis này, người đang đứng trần trụi trên bờ sông. Họ nói, "Alexander Đại đế mời ông đi cùng ông ấy về nước ông ấy. Đủ mọi tiện nghi, bất kì điều gì ông cần, đều sẽ được chu cấp. Ông sẽ là vị khách hoàng gia."
Tu sĩ khổ hạnh - vị fakir - trần trụi này cười và nói, "Các anh đi và bảo thầy các anh rằng người tự gọi mình là đại đế thì không thể vĩ đại được. Và không ai có thể đem ta tới được bất kì đâu - sannyasin đi như mây, trong tự do toàn bộ. Ta không bị làm nô lệ cho bất kì ai."
Họ nói, "Ông phải đã nghe nói về Alexander rồi, ông ấy là con người nguy hiểm. Nếu ông nói không với ông ấy, ông ấy sẽ không chịu đâu, ông ấy đơn giản sẽ chặt đầu ông!"
Sannyasin nói, "Tốt hơn cả các anh hãy đem thầy các anh lại đây, có thể ông ta hiểu được điều ta nói đấy."
Alexander phải tới, bởi vì người lính đã quay lại nói, "Ông ấy là con người hiếm hoi, chói sáng, có cái gì đó của điều không biết bao quanh ông ấy. Ông ấy trần trụi, nhưng người ta không cảm thấy trong sự hiện diện của ông ấy rằng ông ấy là trần trụi - về sau bệ hạ sẽ nhớ. Ông ấy mạnh mẽ tới mức trong sự hiện diện của ông ấy người ta đơn giản quên mất toàn thể thế giới. Ông ấy có sức hấp dẫn, và im lặng lớn lao bao quanh ông ta và cả vùng đều cảm thấy dường như đó là vui vẻ trong con người này. Ông ấy đáng để gặp, nhưng dường như sẽ có rắc rối phía trước với ông ấy, con người nghèo nàn này, bởi vì ông ấy nói rằng không ai có thể đem ông ấy đi tới bất kì đâu được, rằng ông ấy không là nô lệ của ai cả."
Alexander tới gặp ông ấy với lưỡi kiếm tuốt trần trong tay. Dandamis cười và nói, "Cất kiếm đi, nó vô dụng ở đây. Cất kiếm vào bao đi; nó vô dụng ở đây bởi vì ông chỉ có thể chém được thân thể ta, cái mà ta đã rời bỏ từ lâu rồi. Kiếm của ông không thể chém được ta, cho nên cất nó đi; đừng trẻ con."
Và tương truyền rằng đây là lần đầu tiên Alexander đã theo lệnh của ai đó khác; chỉ bởi vì chính sự hiện diện của con người này mà ông ấy không thể nhớ được mình là ai. Ông ấy cất kiếm vào bao và nói, "Ta chưa bao giờ bắt gặp một người tuyệt vời như thế." Và khi ông ấy quay về trại ông ấy nói, "Khó mà giết một người đã sẵn sàng để chết, giết người đó là vô nghĩa. Người ta có thể giết người còn đang tranh đấu, thế thì có nghĩa nào đó trong việc giết; nhưng người ta không thể giết được một người đã sẵn sàng và người nói, 'Đây là đầu ta, ông có thể chặt nó.'"
Và Dandamis thực tế đã nói, "Đây là đầu ta, ông có thể chặt nó. Khi chiếc đầu rơi xuống, ông sẽ thấy nó rơi trên cát và ta cũng thấy nó rơi trên cát, bởi vì ta không là thân thể. Ta là nhân chứng."
Alexander phải đã kể lại cho bạn bè, "Có những sannyasins mà ta đáng ra thì có thể đem họ về, nhưng họ lại không phải là sannyasins. Thế rồi ta bắt gặp một người thực sự là cái gì đó hiếm hoi - và các ông đã biết đúng, đoá hoa này hiếm thật, nhưng không ai có thể ép buộc được ông ấy bởi vì ông ấy không sợ chết. Khi một người không sợ chết, làm sao người ta có thể buộc ông ấy là cái gì được?"
Chính nỗi sợ của bạn làm cho bạn thành nô lệ - chính nỗi sợ của bạn. Khi bạn không sợ, bạn không còn là nô lệ nữa; thực tế, chính nỗi sợ của bạn mới buộc bạn làm người khác thành nô lệ bởi vì họ có thể cố gắng làm cho bạn thành nô lệ.
Một người vô sợ hãi thì không sợ bất kì ai mà cũng không làm cho bất kì ai sợ mình. Nỗi sợ biến mất toàn bộ.

Chương 3. Con đường của trái tim

Osho - Dũng cảm – Vui sống hiểm nguy
Chương 3. Con đường của trái tim


Từ courage (dũng cảm) rất hay. Nó bắt nguồn từ gốc Latin cor, có nghĩa là "trái tim." Cho nên dũng cảm nghĩa là sống bằng trái tim. Và người yếu đuối, chỉ người yếu đuối thôi, mới sống bằng đầu; sợ hãi, họ tạo ra an ninh của logic quanh bản thân họ. Hoảng sợ, họ đóng mọi cửa sổ và cửa ra vào - bằng thượng đế học, khái niệm, từ ngữ, lí thuyết - và bên trong những cửa sổ và cửa ra vào đóng im ỉm đó, họ ẩn trốn.
Con đường của trái tim là con đường của dũng cảm. Đó là sống trong không an ninh; đó là sống trong tình yêu, và tin cậy; đó là đi vào trong cái không biết. Đó là việc rời bỏ quá khứ và cho phép tương lai hiện hữu. Dũng cảm là đi trên con đường nguy hiểm. Cuộc sống là nguy hiểm và chỉ kẻ hèn nhát mới có thể tránh nguy hiểm - nhưng thế thì họ đã chết rồi. Người sống, thực sự sống, sống sinh động, bao giờ cũng sẽ đi vào trong cái không biết. Có nguy hiểm ở đó, nhưng người đó sẽ nhận mạo hiểm. Trái tim bao giờ cũng sẵn sàng nhận mạo hiểm, trái tim là kẻ liều lĩnh. Cái đầu là doanh nhân. Cái đầu bao giờ cũng tính toán - nó tinh ranh. Trái tim không tính toán.
Từ tiếng Anh courage (dũng cảm) này thật hay, rất thú vị. Sống qua trái tim là khám phá nghĩa. Nhà thơ sống qua trái tim và, dần dần, trong trái tim ông ấy bắt đầu nghe thấy âm thanh của cái không biết. Cái đầu không thể nghe được; nó ở rất xa với cái không biết. Cái đầu chất đầy những cái đã biết.
Tâm trí bạn là gì? Nó là tất cả những điều bạn đã biết. Nó là quá khứ, cái chết, cái đã qua rồi. Tâm trí không là gì ngoài quá khứ được tích luỹ, kí ức. Trái tim là tương lai; trái tim bao giờ cũng hi vọng, trái tim bao giờ cũng ở đâu đó trong tương lai. Cái đầu nghĩ về quá khứ, trái tim mơ về tương lai.
Tương lai còn chưa tới. Tương lai còn chưa hiện hữu. Tương lai mới là khả năng - nó sẽ tới, nó đang tới rồi. Mọi khoảnh khắc tương lai đều trở thành hiện tại, và hiện tại trở thành quá khứ. Quá khứ không có khả năng nào, nó đã được dùng rồi. Bạn đã đi khỏi nó rồi - nó đã cạn kiệt, nó là thứ chết, nó giống như nấm mồ. Tương lai giống như hạt mầm; nó đang tới, luôn tới, bao giờ cũng đạt tới và gặp gỡ với hiện tại. Bạn bao giờ cũng chuyển động. Hiện tại không là gì ngoài việc chuyển vào tương lai. Nó là bước đi mà bạn đã lấy; nó đi vào tương lai.
MỌI NGƯỜI TRÊN THẾ GIỚI ĐỀU MUỐN LÀ THẬT bởi vì chỉ cái thật mới đem tới nhiều niềm vui thế và dư thừa thế của phúc lạc - sao người ta phải là giả? Bạn phải có dũng cảm để có cái nhìn sâu sắc hơn chút ít: Sao bạn sợ? Thế giới này có thể làm gì cho bạn? Mọi người có thể cười bạn; điều đó sẽ làm cho họ thoải mái - tiếng cười bao giờ cũng là thuốc, lành mạnh. Mọi người có thể nghĩ bạn điên... chỉ bởi vì họ nghĩ bạn điên, bạn đâu có trở thành điên.
Và nếu bạn là đích thực về niềm vui của mình, nước mắt của mình, điệu vũ của mình, chẳng chóng thì chầy sẽ có những người bắt đầu hiểu bạn, những người có thể bắt đầu tham gia cùng đoàn lữ hành của bạn. Bản thân tôi đã bắt đầu một mình trên con đường, và thế rồi mọi người cứ tới và nó trở thành đoàn lữ hành toàn thế giới! Mà tôi đã chẳng mời ai cả; tôi đơn giản đã làm bất kì điều gì tôi cảm thấy đang tới từ trái tim tôi.
Trách nhiệm của tôi là hướng tới trái tim tôi, không hướng tới bất kì ai khác trên thế giới. Cho nên trách nhiệm của bạn chỉ hướng tới bản thể riêng của bạn thôi. Đừng chống lại nó, bởi vì chống lại nó là tự tử, là tự phá huỷ bản thân bạn. Và lợi lộc gì? Cho dù mọi người có kính trọng bạn, và mọi người coi bạn là người rất đúng mực, đáng kính, đáng tôn vinh, những điều này sẽ chẳng nuôi dưỡng được cho bản thể bạn. Chúng không cho bạn bất kì cái nhìn nào thêm vào trong cuộc sống và cái đẹp vô biên của nó.
Bao nhiêu triệu người đã sống trước bạn trên trái đất này? Bạn thậm chí chẳng biết tới tên họ; họ đã từng sống hay không cũng chẳng tạo ra khác biệt gì. Đã có các thánh nhân và có các tội nhân, và đã có những người rất đáng kính trọng, và đã có đủ mọi loại lập dị, gàn dở, nhưng họ tất cả đã biến mất - thậm chí chẳng dấu vết nào còn lại trên trái đất.
Mối quan tâm duy nhất của bạn nên là chăm nom tới và bảo vệ cho những phẩm chất mà bạn có thể đem theo mình khi cái chết phá huỷ thân thể bạn, tâm trí bạn, bởi vì những phẩm chất này sẽ là người bạn đồng hành duy nhất của bạn.
Chúng là những giá trị thực duy nhất, và những người đạt tới chúng - chỉ họ mới sống; những người khác chỉ giả vờ sống.
Nhân viên KGB gõ cửa nhà Yussel Finkelstein một đêm tối mù mịt. Yussel mở cửa. Nhân viên KGB xổ ra một tràng, "Yussel Finkelstein có sống ở đây không?"
"Không," Yussel đáp, đứng đó trong bộ quần áo ngủ sờn rách.
"Không à? Thế tên anh là gì?"
"Yussel Finkelstein." Viên KGB đấm anh ta ngã nhào xuống đất và nói, "Anh vừa nói rằng anh không sống ở đây phải không?"
Yussel đáp, "Ông gọi thế này mà là sống à?"
Chỉ sống thì không phải bao giờ cũng là sống. Nhìn vào cuộc sống của bạn đi. Bạn có thể gọi nó là phúc lành không? Bạn có thể gọi nó là món quà không, món quà của sự tồn tại? Bạn có muốn cuộc sống này cứ được trao đi trao lại cho bạn mãi không?
ĐỪNG NGHE THEO KINH SÁCH - nghe trái tim riêng của mình. Đó là kinh sách duy nhất tôi qui định: lắng nghe rất chăm chú, rất có ý thức, và bạn sẽ không bao giờ sai. Và khi nghe theo trái tim riêng của mình, bạn sẽ không bao giờ bị phân chia cả. Khi lắng nghe trái tim riêng của mình bạn sẽ bắt đầu đi theo hướng đúng, thậm chí không nghĩ tới điều gì là đúng và điều gì là sai.
Toàn thể nghệ thuật cho nhân loại mới sẽ bao gồm trong bí mật của việc lắng nghe theo trái tim một cách có ý thức, tỉnh táo, chăm chú. Và đi theo nó, đi tới bất kì chỗ nào nó đưa bạn tới. Vâng, đôi khi nó sẽ đưa bạn vào nguy hiểm - nhưng nhớ lấy, những nguy hiểm đó là cần để làm cho bạn trưởng thành. Đôi khi nó sẽ đem bạn đi lạc lối - nhưng lại nhớ, đi lạc lối đó là một phần của trưởng thành. Nhiều lần bạn sẽ ngã - lại đứng dậy, bởi vì đây là cách người ta thu lấy sức mạnh, bằng việc ngã và lại vươn lên. Đây là cách người ta trở nên được tích hợp.
Nhưng đừng theo các qui tắc bị áp đặt từ bên ngoài. Không qui tắc áp đặt nào đã bao giờ có thể đúng được - bởi vì các qui tắc được đặt ra do những người muốn cai trị bạn! Vâng, đôi khi đã có những người rất thông minh nữa - Phật, Jesus, Krishna, Mohammed. Họ đã không trao các qui tắc cho thế giới, họ đã đem cho tình yêu của mình. Nhưng chẳng chóng thì chầy các đệ tử tụ tập lại với nhau và bắt đầu làm ra qui tắc ứng xử. Một khi Thầy qua đời, một khi ánh sáng tắt rồi và họ đang trong bóng tối sâu sắc, họ bắt đầu dò dẫm tìm các qui tắc nào đó để theo, bởi vì bây giờ ánh sáng mà họ có thể thấy được đã không còn đó nữa. Bây giờ họ sẽ phải lệ thuộc vào các qui tắc.
Điều Jesus đã làm là việc thì thầm của trái tim ông ấy, còn điều người Ki tô giáo cứ làm là không thì thầm từ trái tim riêng của họ. Họ là những kẻ bắt chước - và khoảnh khắc bạn bắt chước, bạn xúc phạm tính nhân bản của mình, bạn xúc phạm Thượng đế của mình.
Đừng bao giờ là kẻ bắt chước, bao giờ cũng là nguyên bản. Đừng trở thành bản sao. Nhưng đó là điều đang xảy ra trên khắp thế giới này - toàn các bản sao với bản sao.
Cuộc sống thực sự là điệu vũ nếu bạn là nguyên bản - và bạn được ngụ ý là nguyên bản. Nhìn Krishna khác biệt làm sao với Phật. Nếu Krishna theo Phật thì chúng ta đã bỏ lỡ mất một trong những người đẹp nhất trên trái đất này. Hay nếu Phật theo Krishna, ông ấy sẽ chỉ là một mẫu vật nghèo nàn. Cứ thử nghĩ Phật đang thổi sáo mà xem! - ông ấy sẽ quấy rối giấc ngủ của nhiều người, ông ấy đâu có phải là người thổi sáo. Cứ thử nghĩ Phật đang nhảy múa; điều đó trông kì cục thế, ngớ ngẩn.
Và cùng điều đó cũng hệt như trường hợp với Krishna. Ngồi dưới gốc cây mà không có sáo, không có vòng mũ lông công, không có quần áo đẹp - chỉ ngồi như kẻ ăn xin dưới gốc cây với mắt nhắm nghiền, chẳng ai nhảy múa xung quanh ông ấy, chẳng điệu vũ nào, chẳng bài ca nào - và Krishna sẽ trông đáng thương thế, nghèo nàn thế. Phật là Phật, Krishna là Krishna, và bạn là bạn. Và bạn theo bất kì cách nào cũng không kém hơn bất kì ai khác. Kính trọng bản thân mình đi, kính trọng tiếng nói bên trong riêng của mình và tuân theo nó.
Và nhớ, tôi không đảm bảo với bạn rằng điều đó bao giờ cũng dẫn bạn đi đúng đâu. Nhiều lần nó sẽ dẫn bạn đi sai, bởi vì để đi tới cánh cửa đúng người ta trước hết phải gõ lên nhiều cánh cửa sai. Đó là cách nó thế đấy. Nếu bạn ngẫu nhiên loạng choạng vớ phải cánh cửa đúng, bạn sẽ không thể nào nhận ra được rằng nó là đúng. Cho nên nhớ, trong quyết toán tối thượng không nỗ lực nào bị phí hoài cả; mọi nỗ lực đều đóng góp cho đỉnh cao tối thượng của trưởng thành của bạn.
Cho nên đừng ngần ngại, đừng lo nghĩ quá nhiều về việc đi sai. Đó là một trong các vấn đề: mọi người đã được dạy đừng bao giờ làm bất kì cái gì sai, và thế rồi họ trở nên ngần ngại, sợ hãi, kinh hoàng khi làm điều sai, đến mức họ trở nên bị mắc kẹt. Họ không thể chuyển động được, cái gì đó sai có thể xảy ra. Cho nên họ trở thành giống như tảng đá, họ đánh mất mọi chuyển động.
Cứ phạm thật nhiều sai lầm có thể có, chỉ cần nhớ một điều: đừng phạm phải cùng một sai lầm mãi. Và bạn sẽ trưởng thành. Đi lạc lối là một phần của tự do của bạn; thậm chí đi ngược lại Thượng đế cũng là một phần của chân giá trị của bạn. Và đôi khi ngay cả việc đi ngược lại Thượng đế cũng là điều hay. Đây là cách bạn sẽ bắt đầu có xương sống; bằng không, có hàng triệu người, không xương sống.
Quên mọi điều bạn đã từng được bảo, "Cái này đúng và cái này sai." Cuộc sống không cố định như vậy. Điều là đúng hôm nay có thể sai ngày mai, điều sai vào khoảnh khắc này có thể đúng vào khoảnh khắc tiếp. Cuộc sống không thể bị phân loại như vậy; bạn không thể dán nhãn cho nó dễ dàng thế, "Cái này đúng và cái này sai." Cuộc sống không phải là cửa hiệu của nhà hoá học nơi mọi cái chai đều được dán nhãn và bạn biết cái gì là cái gì. Cuộc sống là điều bí ẩn: khoảnh khắc này cái gì đó khớp và thế rồi nó đúng; khoảnh khắc khác, bao nhiêu nước đã trôi xuôi qua sông Hằng đến mức nó không còn khớp nữa và nó sai.
Định nghĩa của tôi về đúng là gì? Cái hài hoà với sự tồn tại là đúng, còn cái không hài hoà với sự tồn tại là sai. Bạn sẽ phải rất tỉnh táo từng khoảnh khắc, bởi vì điều đó phải được quyết định từng khoảnh khắc tươi mới. Bạn không thể phụ thuộc vào những câu trả lời đã làm sẵn về cái gì đúng và cái gì sai. Chỉ người ngu mới phụ thuộc vào các câu trả lời làm sẵn bởi vì thế thì họ không cần thông minh, không có nhu cầu. Bạn đã biết cái gì là đúng và cái gì là sai, bạn có thể nhớ danh sách đó; danh sách đó không to lớn gì.
Mười lời răn - đơn giản thế! - bạn biết cái gì là đúng và cái gì là sai. Nhưng cuộc sống cứ thay đổi liên tục. Nếu Moses quay lại, tôi cho rằng ông ấy sẽ không cho bạn cùng mười lời răn đó đâu - ông ấy không thể cho được. Sau ba nghìn năm, làm sao ông ấy có thể cho bạn cùng những lời răn đó được? Ông ấy sẽ phải phát minh ra cái gì đó mới.
Nhưng hiểu biết riêng của tôi là thế này, rằng bất kì khi nào lời răn được trao, chúng tạo ra khó khăn cho mọi người bởi vì vào lúc chúng được trao thì chúng đã lạc hậu rồi. Cuộc sống chuyển động quá nhanh; nó năng động, nó không tĩnh tại. Nó không phải là cái ao tù đọng, nó là sông Hằng, nó cứ tuôn chảy. Nó chưa bao giờ là như nhau cho hai khoảnh khắc kế tiếp. Cho nên một điều có thể đúng vào khoảnh khắc này, và có thể không đúng vào khoảnh khắc tiếp.
Thế thì phải làm gì? Điều có thể duy nhất là làm cho mọi người nhận biết rằng bản thân họ có thể quyết định được cách đáp ứng với cuộc sống thay đổi.
Một câu chuyện Thiền:
Có hai ngôi chùa, đối kháng nhau. Cả hai vị thầy - họ phải đã là những người được gọi là thầy duy nhất, phải thực sự là các sư - chống đối lẫn nhau nhiều đến mức họ bảo các tín đồ của mình đừng bao giờ ngó sang ngôi chùa kia.
Từng sư đều có một chú tiểu phục vụ mình, đi kiếm mọi thứ về cho ông ta, làm việc vặt. Sư của chùa thứ nhất bảo với chú tiểu của mình, "Chớ bao giờ nói với chú tiểu kia đấy. Những người đó là nguy hiểm."
Nhưng trẻ con vẫn cứ là trẻ con. Một hôm chúng gặp nhau trên đường, và chú tiểu của ngôi chùa thứ nhất hỏi chú tiểu kia, "Đằng ấy đi đâu đấy?"
Chú tiểu kia trả lời, "Tới bất kì đâu gió đưa tớ tới." Nó phải đã lắng nghe những điều nói về Thiền lớn lao trong chùa; nó nói, "Tới bất kì đâu gió đưa tớ tới." Một phát biểu vĩ đại, Đạo thuần khiết.
Nhưng chú tiểu thứ nhất lại rất lúng túng, bực mình, và nó lại không thể tìm được cách trả lời chú tiểu kia. Thất vọng, tức giận, và cũng thấy mặc cảm... "Thầy mình đã dặn đừng có nói với những kẻ này. Những người này thực sự nguy hiểm. Bây giờ, đây là loại câu trả lời gì? Nó làm bẽ mặt mình."
Nó đi tới thầy nó và kể với thầy điều đã xảy ra: "Con rất ân hận là con đã nói với nó. Thầy đúng lắm, những người đó thật là kì lạ. Đây là loại câu trả lời gì vậy? Con đã hỏi nó, 'Đằng ấy đi đâu đấy?' - một câu hỏi đơn giản, chính thức - và con biết nó cũng đi ra chợ, cũng như con đi ra chợ. Nhưng nó lại nói, 'Tới bất kì chỗ nào gió đưa tớ tới.'"
Thầy nói, "Ta đã dặn con rồi, mà con không chịu nghe. Bây giờ nghe đây, ngày mai, con đứng ở cùng chỗ đó lần nữa đi. Khi nó tới, hỏi nó, 'Đằng ấy đi đâu đấy?' và nó sẽ nói, 'Tới bất kì đâu gió đưa tớ tới.' Thế thì con cũng triết lí thêm một chút nữa. Nói, 'Nếu đằng ấy không có chân, thì sao?' - bởi vì linh hồn là vô thân thể và gió không thể đem linh hồn đi bất kì đâu được - 'Thế thì sao?'"
Chú tiểu này muốn tuyệt đối sẵn sàng; cả đêm chú lặp đi lặp lại câu trả lời đó mãi. Rồi sáng hôm sau từ rất sớm chú đã ra đó rồi, đứng ở ngay chỗ đó, và vào đúng giờ chú tiểu kia tới. Chú tiểu này sướng lắm, bây giờ nó sẽ cho cậu kia biết triết lí thực là gì. Thế là nó hỏi, "Đằng ấy đi đâu đấy?" Và nó chờ đợi...
Nhưng chú tiểu kia lại nói, "Tớ đi chợ mua rau đây."
Bây giờ, phải làm gì với triết lí mà chú tiểu này đã học rồi đây?
Cuộc sống giống như vậy đó. Bạn không thể chuẩn bị cho nó được, bạn không thể sẵn sàng cho nó được. Đó là cái đẹp của nó, đó là điều kì diệu của nó; rằng nó bao giờ cũng đem bạn vào cái không nhận biết; nó bao giờ cũng tới như điều bất ngờ. Nếu bạn có mắt bạn sẽ thấy rằng từng khoảnh khắc đều là điều bất ngờ và không câu trả lời làm sẵn nào là áp dụng được.

Chương 4. Con đường của thông minh

Osho - Dũng cảm – Vui sống hiểm nguy
Chương 4. Con đường của thông minh


Thông minh là sống động, nó là tự phát. Nó cởi mở, nó mong manh. Nó vô tư, nó là dũng cảm để vận hành mà không có kết luận nào. Và tại sao tôi nói nó là dũng cảm? Nó là dũng cảm bởi vì khi bạn vận hành từ kết luận thì kết luận bảo vệ bạn; kết luận cho bạn an ninh, an toàn. Bạn biết rõ điều đó, bạn biết cách đi tới nó, bạn rất hiệu quả với nó. Vận hành không kết luận nào là vận hành trong hồn nhiên. Không có an ninh; bạn có thể đi sai, bạn có thể đi lạc lối.
Người sẵn sàng đi vào cuộc thám hiểm được gọi là chân lí đều phải có khả năng phạm phải nhiều sai sót, sai lầm - phải có khả năng mạo hiểm. Người đó có thể đi lạc lối, nhưng đó là cách người ta đạt tới. Nhiều nhiều lần đi lạc lối, người ta học cách không đi lạc lối. Phạm phải nhiều sai lầm người ta học được cái gì là sai lầm, và cách không phạm phải nó. Biết cái gì là lầm lỗi, người ta đi tới ngày một gần hơn với chân lí. Đó là thám hiếm cá nhân; bạn không thể phụ thuộc vào kết luận của người khác.
BẠN ĐƯỢC SINH RA LÀ VÔ TRÍ. Để điều này chìm vào trong trái tim bạn sâu nhất có thể được bởi vì qua điều đó, cánh cửa mở ra. Nếu bạn được sinh ra là vô trí, thế thì tâm trí chỉ là sản phẩm xã hội. Nó chẳng có gì tự nhiên, nó được trau dồi. Nó đã được đặt lên đỉnh của bạn. Sâu bên dưới bạn vẫn còn tự do, bạn có thể thoát khỏi nó. Người ta không bao giờ có thể thoát ra khỏi tự nhiên được, nhưng người ta có thể thoát ra khỏi cái giả tạo vào bất kì khoảnh khắc nào người ta quyết định thoát ra.
Sự tồn tại đến trước tư duy. Cho nên sự tồn tại không phải là trạng thái của tâm trí, nó là trạng thái vượt ra ngoài. Hiện hữu là cách để biết điều nền tảng, không phải là suy nghĩ. Khoa học có nghĩa là suy nghĩ, triết học có nghĩa là suy nghĩ, thượng đế học có nghĩa là suy nghĩ. Tính tôn giáo không có nghĩa suy nghĩ. Cách tiếp cận tôn giáo là cách tiếp cận vô suy nghĩ. Nó thân thiết hơn, nó đem bạn tới gần thực tại hơn. Nó vứt bỏ mọi cái cản trở, nó khai thông bạn; bạn bắt đầu tuôn chảy trong cuộc sống. Bạn không nghĩ rằng mình tách rời, đứng nhìn đấy. Bạn không nghĩ rằng mình là người quan sát, đơn độc, xa rời. Bạn gặp gỡ, trộn lẫn, và hội nhập vào trong thực tại.
Và có một loại biết khác. Nó không thể được gọi là "tri thức". Nó giống với yêu nhiều hơn, ít giống tri thức hơn. Nó thân thiết tới mức từ "tri thức" là không đủ sức diễn tả nó. Từ "yêu" thích hợp hơn, diễn đạt hơn.
Trong lịch sử tâm thức con người, điều đầu tiên đã tiến hoá là phép thần. Phép thần là tổ hợp của khoa học và tôn giáo. Phép thần có cái gì đó của tâm trí và cái gì đó của vô trí. Thế rồi từ phép thần mới phát triển ra triết học. Thế rồi từ triết học khoa học mới phát triển. Phép thần là cả vô trí và tâm trí. Triết học chỉ là tâm trí. Và thế rồi tâm trí cộng với thực nghiệm trở thành khoa học. Tính tôn giáo là trạng thái của vô trí.
Tính tôn giáo và khoa học là hai cách tiếp cận tới thực tại. Khoa học tiếp cận qua lối phụ; tính tôn giáo đi trực tiếp. Khoa học là cách tiếp cận gián tiếp; tính tôn giáo là cách tiếp cận ngay lập tức.
Khoa học đi lòng vòng; tính tôn giáo đơn giản thấm vào trung tâm của thực tại.
Thêm vài điều nữa... Tư duy chỉ có thể nghĩ về cái đã biết - nó có thể nhai lại cái đã nhai. Tư duy không bao giờ có thể nguyên bản được. Làm sao bạn có thể nghĩ về cái không biết được? Bất kì điều gì bạn có thể xoay xở để nghĩ cũng sẽ thuộc về cái đã biết. Bạn chỉ có thể nghĩ được bởi vì bạn biết. Nhiều nhất, tư duy có thể tạo ra các tổ hợp mới. Bạn có thể nghĩ về ngựa bay lên trời, được làm bằng vàng, nhưng chẳng có gì mới cả. Bạn biết chim bay trên trời, bạn biết vàng, bạn biết ngựa; bạn tổ hợp ba thứ đó lại với nhau. Nhiều nhất, tư duy có thể tưởng tượng ra các tổ hợp mới, nhưng nó không thể biết được cái không biết. Cái không biết vẫn còn bên ngoài nó. Cho nên tư duy đi vòng tròn, biết cái đã biết rồi, lặp đi lặp lại mãi. Nó cứ nhai lại cái đã nhai. Tư duy chẳng bao giờ nguyên bản cả.
Bắt gặp thực tại một cách nguyên bản, triệt để, bắt gặp thực tại không có trung gian nào - bắt gặp thực tại dường như bạn là người đầu tiên tồn tại - đó là giải thoát. Chính tính mới mẻ đó của nó giải thoát.
CHÂN LÍ LÀ KINH NGHIỆM, KHÔNG PHẢI LÀ NIỀM TIN. Chân lí chưa bao giờ tới qua nghiên cứu về nó; chân lí phải được đương đầu, chân lí phải được đối diện. Người nghiên cứu về tình yêu giống như người nghiên cứu về Himalaya bằng cách nhìn vào bản đồ núi non. Bản đồ không phải là núi! Và nếu bạn bắt đầu tin vào bản đồ, bạn sẽ bỏ lỡ núi. Nếu bạn trở nên quá bị ám ảnh bởi bản đồ, núi có thể có đó ngay trước bạn, nhưng dầu vậy bạn sẽ không có khả năng thấy được nó.
Và đó là cách nó vậy đấy. Núi ở ngay trước bạn, nhưng mắt bạn đầy những bản đồ - bản đồ về núi, bản đồ về cùng ngọn núi đó, được các nhà thám hiểm làm ra. Ai đó đã trèo lên ngọn núi này từ phía bắc, ai đó từ phía đông. Họ đã làm nên những bản đồ khác nhau: Koran, Kinh Thánh, Gita - những bản đồ khác nhau của cùng một chân lí. Nhưng bạn lại quá đầy những bản đồ, quá nặng gánh bởi trọng lượng của chúng; bạn không thể đi được một li. Bạn không thể thấy được ngọn núi đang sừng sững ngay trước mình, những đỉnh núi tuyết phủ sáng lên như vàng trong ánh mặt trời buổi sáng. Bạn không có mắt để thấy nó.
Con mắt định kiến là mắt mù, trái tim đầy những kết luận là trái tim chết. Quá nhiều những giả thuyết tiên thiên và thông minh của bạn bắt đầu mất đi sự sắc bén của nó, cái đẹp của nó. Nó trở thành mờ đục.
Thông minh mờ đục là điều vẫn được gọi là trí tuệ. Cái gọi là giới trí thức của bạn không thực sự thông minh mấy đâu, họ chỉ là những nhà trí thức. Trí tuệ là cái xác. Bạn có thể trang điểm cho nó, bạn có thể trang điểm nó bằng những viên ngọc trai, kim cương, ngọc lục lớn, nhưng dầu vậy nó vẫn là cái xác.
Sống động là vấn đề hoàn toàn khác.
KHOA HỌC CÓ NGHĨA LÀ RÕ RÀNG, là tuyệt đối rõ ràng, về các sự kiện. Và nếu bạn rất rõ ràng về sự kiện, bạn không thể thấy được điều huyền bí - bạn càng rõ ràng, điều huyền bí càng bay hơi đi. Huyền bí cần mơ hồ nào đó; huyền bí cần cái gì đó không xác định, không phân ranh giới. Khoa học mang tính sự kiện; huyền bí không mang tính sự kiện, nó mang tính tồn tại.
Sự kiện chỉ là một phần của sự tồn tại, phần rất nhỏ, và khoa học giải quyết với các bộ phận bởi vì giải quyết với các bộ phận là dễ dàng hơn. Chúng nhỏ hơn, bạn có thể phân tích chúng; bạn không bị tràn ngập bởi chúng, bạn có thể sở hữu chúng trong tay. Bạn có thể khảo sát tỉ mỉ chúng, bạn có thể dán nhãn cho chúng, bạn có thể tuyệt đối chắc chắn về phẩm chất của chúng, về số lượng, về khả năng - nhưng trong chính quá trình đó điều huyền bí bị giết chết. Khoa học là kẻ sát hại huyền bí.
Nếu bạn muốn kinh nghiệm điều huyền bí bạn sẽ phải đi vào qua cánh cửa khác, từ chiều hướng hoàn toàn khác. Chiều hướng của tâm trí là chiều hướng của khoa học, và chiều hướng của thiền là chiều hướng của huyền bí, của bí ẩn.
Thiền làm cho mọi thứ thành không được xác định. Thiền đem bạn vào cái không biết, cái chưa được lập bản đồ. Thiền làm cho bạn dần dần trở thành một loại tan biến nơi người quan sát và cái được quan sát trở thành một. Bây giờ, điều đó là không thể được trong khoa học. Người quan sát phải là người quan sát, và cái được quan sát phải là cái được quan sát, và phân biệt rõ ràng phải được duy trì liên tục. Thậm chí không một khoảnh khắc nào bạn được phép quên bản thân mình, không một khoảnh khắc nào bạn được phép trở nên quan tâm, tan biến, tràn ngập, đam mê, tràn đầy tình yêu với đối tượng của cuộc truy tìm của mình. Bạn phải tách rời, bạn phải rất bình thản - vô tình, tuyệt đối dửng dưng. Và dửng dưng giết chết điều bí ẩn.
Nếu bạn thực sự muốn kinh nghiệm về điều bí ẩn, bạn sẽ phải mở cánh cửa mới trong bản thể mình. Tôi không nói đừng là nhà khoa học, tôi đơn giản nói rằng khoa học có thể vẫn còn là hoạt động ngoại vi đối với bạn. Khi trong phòng thí nghiệm, là nhà khoa học đi, nhưng khi bước ra khỏi phòng thí nghiệm, quên tất cả về khoa học đi. Thế thì nghe chim chóc - và không theo cách thức khoa học! Ngắm nhìn bông hoa - và không theo cách thức khoa học, bởi vì khi bạn ngắm hoa hồng theo cách khoa học, đó là một thứ hoàn toàn khác bạn đang nhìn vào. Nó không phải là cùng hoa hồng mà nhà thơ kinh nghiệm.
Việc kinh nghiệm không phụ thuộc vào đối tượng, việc kinh nghiệm phụ thuộc vào người kinh nghiệm, vào phẩm chất của việc kinh nghiệm.
KHI NHÌN VÀO HOA, TRỞ THÀNH HOA; nhảy múa quanh hoa, hát lên bài ca. Gió thật mát và sảng khoái, mặt trời thật ấm, và hoa đang trong thì đẹp nhất của nó. Hoa đang nhảy múa trong gió, vui sướng, hát lên bài ca, hát lên alleluia. Tham gia cùng nó đi! Vứt bỏ dửng dưng, khách quan, thờ ơ. Vứt bỏ tất cả mọi thái độ khoa học. Trở nên chút ít linh động hơn, tan chảy nhiều hơn, hội nhập nhiều hơn. Để hoa nói với trái tim bạn, để hoa đi vào trong bản thể bạn. Mời hoa - hoa là khách đấy! Và thế thì bạn sẽ có hương vị nào đó của bí ẩn.
Đây là bước đầu tiên hướng tới điều bí ẩn, và bước tối thượng là: Nếu bạn có thể là người tham gia trong một khoảnh khắc, bạn đã biết được chìa khoá, điều bí mật. Thế rồi trở thành người tham gia vào mọi thứ mà bạn đang làm. Bước đi, đừng chỉ làm nó một cách máy móc, đừng chỉ quan sát nó - là nó đi. Nhảy múa, đừng làm nó một cách kĩ thuật; kĩ thuật là không liên quan. Bạn có thể đúng về mặt kĩ thuật vậy mà bạn sẽ bỏ lỡ toàn bộ niềm vui của nó. Tan biến bản thân mình trong điệu vũ đi, trở thành điệu vũ, quên vũ công đi.
Khi thống nhất sâu sắc như vậy bắt đầu xảy ra trong nhiều, nhiều pha của cuộc sống của bạn, khi tất cả mọi thứ xung quanh bạn bắt đầu có những kinh nghiệm vô cùng như vậy về sự biến mất, vô ngã, cái không... khi hoa có đó và bạn không có đó, cầu vồng có đó và bạn không có đó... khi mây lang thang trên trời cả bên trong và bên ngoài, và bạn không có đó... khi có im lặng hoàn toàn chừng nào có liên quan tới bạn - khi không có ai trong bạn, chỉ là im lặng thuần khiết, im lặng trong trắng, không bị sao lãng, không bị quấy rối bởi logic, ý nghĩ, xúc động, tình cảm - đó là khoảnh khắc của thiền. Tâm trí mất đi, và khi tâm trí mất đi, bí ẩn bước vào.

Chương 5. Con đường của tin cậy

Osho - Dũng cảm – Vui sống hiểm nguy
Chương 5. Con đường của tin cậy


TIN CẬY LÀ THÔNG MINH LỚN NHẤT. Tại sao mọi người không tin cậy? bởi vì họ không tin cậy vào thông minh của mình. Họ sợ, họ sợ rằng họ có thể bị lừa. Họ sợ; đó là lí do tại sao họ hoài nghi. Hoài nghi bắt nguồn từ sợ hãi. Hoài nghi là một loại bấp bênh đối với thông minh của riêng bạn. Bạn không tin tưởng đến mức bạn có thể tin cậy và bạn có thể đi vào trong tin cậy. Tin cậy cần thông minh, dũng cảm, toàn vẹn lớn lao. Nó cần trái tim lớn để đi vào trong đó. Nếu bạn không có đủ thông minh, bạn tự bảo vệ mình qua hoài nghi.
Nếu bạn có thông minh, bạn sẵn sàng đi vào trong cái không biết bởi vì bạn biết rằng cho dù toàn thể thế giới đã biết biến mất đi và bạn bị bỏ lại trong cái không biết, bạn vẫn sẽ có khả năng định cư ở đó. Bạn sẽ có khả năng làm nhà ở đó trong cái không biết. Bạn tin cậy vào thông minh của mình. Hoài nghi là cảnh giác đề phòng; thông minh tự giữ nó cởi mở bởi vì thông minh biết, "Bất kì cái gì xảy ra, mình đều sẽ có khả năng chấp nhận thách thức, đáp ứng lại một cách thích hợp." Tâm trí tầm thường không có tin cậy đó trong chính nó. Tri thức là xoàng xĩnh.
Hiện hữu trong trạng thái không biết là thông minh, đó là nhận biết - và đó là không tích trữ. Từng khoảnh khắc xảy ra đều biến đi, nó không để lại dấu vết gì đằng sau, không dấu vết tồn tại nào. Người ta bước ra khỏi nó lại thuần khiết, lại hồn nhiên, lại giống như đứa trẻ.
Đừng cố gắng hiểu cuộc sống. Sống nó đi! Đừng cố gắng hiểu tình yêu. Đi vào trong tình yêu. Thế thì bạn sẽ biết - và biết đó sẽ bắt nguồn từ kinh nghiệm của bạn. Biết đó sẽ không bao giờ phá huỷ điều bí ẩn: bạn càng biết nhiều, bạn càng biết rằng nhiều điều vẫn còn cần được biết.
Cuộc sống không phải là bài toán. Nhìn vào nó như bài toán là lấy bước đi sai. Nó là bí ẩn cần được sống, cần được yêu, cần được kinh nghiệm.
Thực tế, tâm trí bao giờ cũng theo đuổi giải thích là tâm trí sợ hãi. Bởi vì nỗi sợ lớn lao mà người ta muốn mọi thứ đều được giải thích. Người đó không thể đi vào trong bất kì cái gì trước khi điều đó được giải thích cho người đó. Có giải thích người đó cảm thấy rằng bây giờ vùng lãnh thổ này là quen thuộc; bây giờ người đó biết địa lí, bây giờ người đó có thể đi với bản đồ và sách hướng dẫn và thời gian biểu. Người đó chẳng bao giờ sẵn sàng đi vào trong lãnh thổ không biết, chưa vẽ bản đồ, không có bản đồ, không có người hướng dẫn. Nhưng cuộc sống lại giống như thế, và không bản đồ nào là có thể có được bởi vì cuộc sống cứ thay đổi hoài. Mọi khoảnh khắc đều là bây giờ. Chẳng có điều gì cũ dưới mặt trời, tôi nói với bạn - mọi thứ đều mới. Nó là sự năng động cực kì, chuyển động tuyệt đối. Chỉ thay đổi mới là vĩnh hằng, chỉ thay đổi là không bao giờ thay đổi.
Mọi thứ khác đều cứ thay đổi, cho nên bạn không thể có bản đồ được; vào lúc bản đồ được tạo ra, nó đã lạc hậu rồi. Vào lúc bản đồ có sẵn nó thành vô dụng, cuộc sống đã đổi đường của nó. Cuộc sống đã bắt đầu chơi trò mới. Bạn không thể đương đầu với cuộc sống bằng bản đồ được bởi vì nó không đo được, và bạn không thể đương đầu với cuộc sống bằng việc tư vấn sách hướng dẫn bởi vì sách hướng dẫn là có thể chỉ nếu mọi sự trì trệ. Cuộc sống không trì trệ, nó là năng động, nó là quá trình. Bạn không thể có bản đồ của nó được. Nó là không đo được, nó là bí ẩn không đo được. Đừng yêu cầu lời giải thích.
Và điều này tôi gọi là trưởng thành của tâm trí: khi ai đó đi tới điểm nhìn vào cuộc sống mà không có câu hỏi nào, và đơn giản biến mất vào trong nó với dũng cảm và vô sợ hãi.
TOÀN THỂ THẾ GIỚI ĐẦY NHỮNG NGƯỜI TÔN GIÁO RỞM - nhà thờ, đền chùa, gurudwaras, nhà thờ Mô ha mét giáo, đầy những người tôn giáo. Và bạn không thể thấy thế giới này tuyệt đối phi tôn giáo sao? Với biết bao nhiêu người tôn giáo, thế giới lại phi tôn giáo thế - phép màu này xảy ra thế nào? Mọi người đều mang tính tôn giáo và toàn thể là phi tôn giáo. Tôn giáo này là giả. Mọi người có tin cậy "được nuôi dưỡng". Tin cậy đã trở thành tin tưởng, không phải là kinh nghiệm. Họ đã được dạy để tin, họ đã không được dạy để biết - đó là chỗ nhân loại đã lỡ.
Đừng bao giờ tin. Nếu bạn không thể tin cậy được thì tốt hơn cả hãy hoài nghi bởi vì qua hoài nghi, ngày này hay ngày khác khả năng của tin cậy sẽ nảy sinh. Bạn không thể sống với hoài nghĩ vĩnh viễn được. Hoài nghi là bệnh tật; nó là ốm yếu. Trong hoài nghi bạn không bao giờ có thể cảm thấy được hoàn thành; trong hoài nghi bạn bao giờ cũng run rẩy, trong hoài nghi bạn bao giờ cũng sẽ vẫn còn khổ sở và phân chia và lưỡng lự. Trong hoài nghi bạn sẽ vẫn còn trong ác mộng. Cho nên ngày nọ hay ngày kia bạn sẽ bắt đầu tìm kiếm cách vượt ra ngoài nó. Cho nên tôi nói là kẻ vô thần tốt hơn là kẻ hữu thần, kẻ hữu thần giả.
Bạn đã được dạy phải tin - từ ngay thời thơ ấu, tâm trí của mọi người đã được ước định để tin: tin vào Thượng đế, tin vào linh hồn, tin vào cái này và tin vào cái nọ.
Bây giờ tin tưởng đã đi vào trong máu xương bạn, nhưng nó vẫn là tin thôi - bạn chưa biết. Và chừng nào bạn còn chưa biết, bạn không thể được giải thoát. Tri thức giải thoát, chỉ việc biết mới giải thoát. Mọi tin tưởng đều là thứ vay mượn; người khác đã trao chúng cho bạn, chúng không phải là việc nở hoa của bạn. Và làm sao thứ vay mượn có thể đưa bạn tới cái thực được, cái thực tuyệt đối? Vứt bỏ mọi thứ bạn đã lấy từ người khác đi. Là người ăn xin còn tốt hơn người giầu - giầu không phải bởi việc kiếm sống riêng của bạn mà giầu bởi của cải ăn trộm; giầu qua những thứ vay mượn, giầu qua truyền thống, giầu qua thừa kế. Không, tốt hơn cả hãy là kẻ ăn xin nhưng là kẻ ăn xin của riêng mình. Cái nghèo đó có tính giầu có trong nó bởi vì nó là thực, còn cái giầu của tin tưởng lại rất nghèo. Những tin tưởng đó không bao giờ có thể đi rất sâu; nhiều nhất chúng vẫn còn ở lớp da bên ngoài. Gãi chút xíu, và hoài nghi tòi ra.
Bạn tin vào Thượng đế; thế rồi kinh doanh của bạn sụp đổ và bỗng nhiên hoài nghi có đó. Bạn nói, "Mình không tin, mình không thể tin vào Thượng đế được." Bạn tin vào Thượng đế và người yêu của bạn chết, và hoài nghi bật ra. Bạn tin vào Thượng đế và chỉ bởi cái chết của người yêu của bạn mà tin tưởng này bị phá huỷ sao? Nó cũng chẳng đáng giá gì nhiều. Tin cậy không bao giờ có thể bị phá huỷ - một khi nó có đó, không cái gì có thể phá huỷ được nó. Không cái gì, tuyệt đối không cái gì có thể phá huỷ được nó.
Cho nên nhớ lấy, có khác biệt lớn lao giữa tin cậy và tin tưởng. Tin cậy mang tính cá nhân; tin tưởng mang tính xã hội. Tin cậy của bạn phải trưởng thành; tin tưởng của bạn có thể vẫn còn vậy, dù bạn là bất kì cái gì, và tin tưởng có thể bị áp đặt lên bạn. Vứt bỏ tin tưởng đi. Nỗi sợ sẽ có đó - bởi vì nếu bạn vứt bỏ tin tưởng, hoài nghi nảy sinh. Mỗi tin tưởng đều ép buộc hoài nghi ẩn vào đâu đó, kìm nén hoài nghi. Đừng lo nghĩ về nó; cứ để hoài nghi tới. Mọi người đều phải trải qua đêm tối trước khi người đó đạt tới mặt trời mọc. Mọi người đều phải đi qua hoài nghi. Cuộc hành trình là lâu dài, đêm thì tối. Nhưng sau cuộc hành trình dài và đêm tối, ban mai nảy sinh, thế thì bạn biết tất cả đều xứng đáng. Tin cậy không thể được "trau dồi" - và đừng bao giờ cố gắng trau dồi nó; đó là điều đã được cả nhân loại thực hiện. Tin cậy được trau dồi trở thành tin tưởng. Khám phá tin cậy bên trong bản thân bạn, đừng trau dồi nó. Đi sâu hơn vào bản thể bạn, tới chính cội nguồn bản thể bạn, và khám phá ra nó.
CUỘC TRUY TÌM SẼ CẦN TIN CẬY bởi vì bạn sẽ đi vào trong cái không biết. Nó sẽ yêu cầu tin cậy và dũng cảm vô biên bởi vì bạn đang đi xa khỏi tục lệ và truyền thống; bạn đang đi xa khỏi đám đông. Bạn đang đi vào trong biển khơi và bạn không biết chút nào liệu bờ bên kia có tồn tại hay không.
Tôi không thể phái bạn đi vào cuộc truy tìm như vậy mà không chuẩn bị cho bạn có tin cậy. Điều đó có vẻ mâu thuẫn, nhưng tôi có thể làm được gì? - đây là cách cuộc sống hiện hữu. Chỉ con người của tin cậy lớn lao mới có khả năng của hoài nghi lớn lao, truy tìm lớn lao.
Con người với tin cậy nhỏ bé chỉ có thể hoài nghi nhỏ bé. Con người không có tin cậy chỉ có thể giả vờ rằng mình hoài nghi. Người đó không thể truy tìm sâu sắc được. Chiều sâu tới qua tin cậy - và nó là điều mạo hiểm.
Trước khi tôi phái bạn vào biển chưa lập bản đồ, tôi phải chuẩn bị cho bạn về cuộc hành trình mênh mông này để qua đó bạn sẽ phải đi một mình - nhưng tôi có thể đưa bạn tới chiếc thuyền thôi. Trước hết bạn phải biết về cái đẹp của tin cậy, cực lạc của con đường của trái tim - để cho khi bạn đi vào trong đại dương khơi xa của thực tại, bạn sẽ có đủ dũng cảm đi tiếp. Bất kì điều gì xảy ra bạn sẽ có đủ tin cậy trong bản thân mình.
Thấy điều đó đi: làm sao bạn có thể tin cậy vào bất kì ai hay bất kì cái gì nếu bạn không tin cậy vào chính bản thân mình? Điều đó là không thể được. Nếu bạn hoài nghi chính bản thân mình, làm sao bạn có thể tin cậy được? Chính bạn mới là người sẽ tin cậy, và bạn không tin vào bản thân mình - làm sao bạn có thể tin cậy vào sự tin cậy của mình được? Điều tuyệt đối cần thiết là trái tim nên cởi mở trước khi trí tuệ có thể được biến đổi thành thông minh. Đó là khác biệt giữa trí tuệ và thông minh.
Thông minh là trí tuệ trong hài hoà với trái tim bạn.
Trái tim biết cách tin cậy.
Trí tuệ biết cách tìm và kiếm.
Có một câu chuyện cổ phương Đông:
Hai người ăn xin hay sống bên ngoài một ngôi làng. Một người mù còn người kia không có chân. Một hôm khu rừng gần làng, nơi những người ăn xin này ở, bị bắt lửa cháy. Họ là những kẻ cạnh tranh nhau tất nhiên - vì trong cùng một nghề, ăn xin từ cùng mọi người - và họ liên tục giận nhau. Họ là kẻ thù, không phải là bạn.
Những người trong cùng một nghề không thể là bạn bè được. Điều đó rất khó bởi vì đấy là vấn đề cạnh tranh, khách hàng - bạn lấy mất khách hàng của ai đó. Những kẻ ăn xin dán nhãn lên khách hàng của mình: "Nhớ rằng đây là người của tôi; ông chớ quấy người đó." Bạn đâu có biết mình thuộc vào người ăn xin nào, người ăn xin sở hữu bạn là ai, nhưng người ăn xin nào đó trên phố đã sở hữu bạn rồi đấy. Người đó có thể đã đánh lộn và thắng trong cuộc tranh giành và bây giờ bạn là sở hữu của người đó...
Tôi thường thấy một người ăn xin gần trường đại học; một hôm tôi thấy người đó ở bãi chợ. Người đó thường xuyên ở đó, gần trường đại học, bởi vì thanh niên thường hay hào phóng; người già dần trở nên keo kiệt hơn, sợ hãi hơn. Cái chết đang tới gần ngay cạnh, bây giờ tiền bạc dường như là cái duy nhất có thể có ích. Và nếu họ có tiền, người khác có thể giúp họ; nếu họ không có tiền, ngay cả con trai riêng của họ, con gái riêng của họ, cũng chẳng bận tâm về họ. Nhưng thanh niên có thể là kẻ tiêu tiền như rác. Họ còn trẻ, họ có thể kiếm được; cuộc sống có đó, cuộc sống dài đang ở phía trước.
Người đó đã là người ăn xin giầu có vì các sinh viên đại học... Ở Ấn Độ sinh viên tới đại học chỉ nếu anh ta xuất thân từ gia đình khá giả; bằng không thì đó là cuộc vật lộn. Vài người nghèo cũng vào đó nhưng điều đó đau đớn, gian nan lắm. Tôi cũng xuất thân từ gia đình nghèo. Cả đêm tôi làm việc như một biên tập viên cho một tờ báo, còn ban ngày tôi tới đại học. Nhiều năm tôi không thể ngủ được hơn ba hay bốn giờ - bất kì khi nào tôi có thể tìm ra thời gian ban ngày hay ban đêm.
Cho nên người ăn xin này rất mạnh. Không người ăn xin nào khác có thể bén mảng tới phố đại học này, ngay cả việc đi vào cũng bị cấm. Mọi người đều biết đại học này thuộc về ai - về người ăn xin đó! Một hôm tôi bất ngờ thấy một thanh niên; người già kia không có đó. Tôi hỏi anh ta, "Có chuyện gì vậy? Ông già đâu rồi?"
Anh ta nói, "Ông ấy là bố vợ tôi. Ông ấy đã trao đại học này cho tôi như món quà." Bây giờ, đại học này chẳng biết rằng quyền làm chủ đã thay đổi, rằng ai đó khác bây giờ mới là người chủ. Anh thanh niên này nói, "Tôi đã cưới con gái ông ấy."
Ở Ấn Độ của hồi môn được trao cho khi bạn lấy con gái của ai đó. Không chỉ là bạn lấy người con gái đó đâu: bố vợ bạn phải cho bạn, nếu ông ấy rất giầu, thì là chiếc xe hơi, nhà gỗ một tầng. Nếu ông ấy không giầu lắm thì ít nhất cũng một chiếc xe vetspa; nếu không thế, thì ít nhất cũng là chiếc xe đạp, nhưng ông ấy phải cho cái gì đó này khác - chiếc radio, chiếc đài bán dẫn, chiếc ti vi - và một số tiền mặt. Nếu ông ấy thực sự giầu, ông ấy cho bạn cơ hội ra nước ngoài, để học tập, để trở thành người có giáo dục hơn, thành bác sĩ, kĩ sư - và ông ấy sẽ trả tiền cho điều đó.
Con gái người ăn xin này đã lấy chồng và của hồi môn của cô ấy mà anh chàng này được trao cho là cả khu trường đại học. Anh ta nói, "Từ hôm nay phố này và đại học này thuộc về tôi. Và bố vợ tôi đã giới thiệu cho tôi ai là khách hàng của tôi."
Tôi thấy ông già kia ở bãi chợ cho nên tôi nói với ông ta, "Hay đấy! Ông đã làm việc phải đấy khi cho của hồi môn."
"Vâng," ông ta nói, "Tôi chỉ có mỗi đứa con gái và tôi muốn làm điều gì đó cho con rể mình. Tôi đã cho nó chỗ tốt nhất để ăn xin. Bây giờ tôi ở đây lại cố gắng thu xếp độc quyền của mình ở chợ này. Đó là công việc rất khó khăn ở đây bởi vì có biết bao nhiêu là kẻ ăn xin, những kẻ cao cấp đã chiếm các khách hàng rồi. Nhưng chẳng có gì phải lo lắng cả. Tôi sẽ xoay xở; tôi sẽ tống vài kẻ ăn xin ở đây đi " - và chắc chắn ông ta đã làm điều đó.
Cho nên khi khu rừng bị cháy thì hai kẻ ăn xin này nghĩ ngợi một chốc. Họ là kẻ thù, không chỉ trên lời nói, nhưng đây là trường hợp khẩn cấp. Người mù nói với người không có chân, "Bây giờ cách duy nhất để thoát là ông cưỡi lên vai tôi đây này; dùng đôi chân của tôi còn tôi sẽ dùng đôi mắt của ông. Đó là cách duy nhất chúng ta có thể tự cứu mình."
Điều đó được hiểu ngay lập tức. Không có vấn đề gì. Người không chân không thể đi ra được; người đó không thể đi cắt ngang khu rừng được - tất cả đều đang cháy rồi. Người đó có thể di chuyển chút ít nhưng điều đó chẳng ích gì. Và lối ra, lối ra thực nhanh lại cần tới. Người mù cũng chắc chắn rằng mình không thể ra được. Người đó không biết lửa có ở chỗ nào, đường ở chỗ nào, và cây đang cháy ở chỗ nào và chỗ nào thì không cháy. Người mù... người đó sẽ bị lạc. Nhưng cả hai đều là những người thông minh; họ vứt bỏ thù địch; trở thành bạn bè và cứu mạng mình.
Đây là câu chuyện ngụ ngôn phương Đông. Và đây là nói về trí tuệ và trái tim của bạn. Nó chẳng liên quan gì tới người ăn xin cả, nó có cái gì đó liên quan tới bạn. Nó chẳng liên quan gì tới rừng cháy cả, nó có cái gì đó liên quan tới bạn - bởi vì bạn đang trong đám cháy. Từng khoảnh khắc bạn đều đang cháy, đau đớn, trong khổ sở, phiền não. Một mình trí tuệ của bạn là mù quáng. Nó có chân, nó có thể chạy nhanh, nó có thể đi nhanh, nhưng bởi vì nó mù nên nó không thể chọn được hướng đúng mà đi. Và nó nhất định sẽ liên tục loạng choạng, ngã dúi dụi, tự mình làm bị thương và cảm thấy cuộc sống vô nghĩa. Đó là điều các nhà trí thức trên toàn thế giới vẫn nói: "Cuộc sống vô nghĩa."
Lí do tại sao cuộc sống đối với họ dường như vô nghĩa là ở chỗ trí tuệ mù quáng đang cố thấy ánh sáng. Điều đó là không thể được.
Có trái tim bên trong bạn, cái thấy được, cái cảm được, nhưng lại không có chân; nó không thể chạy được. Nó vẫn còn ở nơi nó đang đấy, đang đập, chờ đợi... một ngày nào đó trí tuệ sẽ hiểu và sẽ có khả năng dùng đôi mắt của trái tim.
Khi tôi nói từ tin cậy tôi ngụ ý con mắt của trái tim.
Còn khi tôi nói hoài nghi tôi ngụ ý đôi chân của trí tuệ của bạn.
Cả hai cùng nhau có thể thoát ra khỏi đám cháy; không có vấn đề gì chút nào. Nhưng nhớ lấy, trí tuệ phải chấp nhận trái tim ở trên vai nó. Nó phải vậy. Trái tim không có chân, chỉ có mắt, và trí tuệ phải lắng nghe trái tim và tuân theo hướng dẫn của nó.
Trong bàn tay của trái tim, trí tuệ trở thành thông minh. Đó là biến đổi, biến đổi toàn bộ năng lượng. Thế thì người đó không trở thành trí thức, người đó đơn giản trở thành trí huệ.
Trí huệ bắt nguồn từ gặp gỡ của trái tim và trí tuệ. Và một khi bạn đã biết nghệ thuật của cách tạo ra sự đồng bộ giữa nhịp đập trái tim bạn và công việc của trí tuệ bạn, bạn có toàn thể bí mật trong tay mình, chìa khoá chủ để mở mọi bí ẩn.

Chương 6. Con đường của hồn nhiên

Osho - Dũng cảm – Vui sống hiểm nguy
Chương 6. Con đường của hồn nhiên


Vấn đề thực không phải là dũng cảm, vấn đề thực là ở chỗ cái đã biết là cái chết, còn cái không biết là cái đang sống. Níu bám vào cái đã biết là níu bám vào cái xác. Không cần dũng cảm để vứt bỏ níu bám; thực tế cần dũng cảm để cứ níu bám vào cái xác. Bạn chỉ phải thấy... Cái quen thuộc với bạn, cái bạn đã từng sống - nó đã cho cái gì? Bạn đã đạt tới đâu? Bạn vẫn không trống rỗng sao? Không có bất mãn mênh mông, thất vọng sâu sắc và vô nghĩa đó sao? Bằng cách nào đó bạn cứ xoay xở, che giấu chân lí và tạo ra dối trá để vẫn còn dính líu, tham gia.
Đây là vấn đề: thấy với sự sáng tỏ rằng mọi thứ bạn biết đều là của quá khứ, nó đã trôi qua rồi. Nó là một phần của bãi tha ma. Bạn có muốn sống trong nấm mồ không, hay bạn muốn sống động? Và đây không chỉ là vấn đề ngày hôm nay; nó sẽ là cùng vấn đề cho ngày mai, và ngày kia nữa. Nó sẽ là cùng vấn đề vào hơi thở cuối cùng của bạn.
Bất kì điều gì bạn biết, bạn tích luỹ - thông tin, tri thức, kinh nghiệm - khoảnh khắc bạn đã thám hiểm xong chúng bạn đều được kết thúc với chúng. Bây giờ mang những lời trống rỗng kia, cái tải trọng chết kia, là đang nghiền nát cuộc sống của bạn, làm nặng nề cuộc sống của bạn, ngăn cản bạn không cho đi vào việc sống, sự hiện hữu hân hoan - điều đang chờ đợi bạn từng khoảnh khắc.
Con người của hiểu biết làm chết đi mọi khoảnh khắc của quá khứ và được tái sinh lại cho tương lai. Sự hiện diện của người đó bao giờ cũng là việc biến đổi, tái sinh và phục sinh. Đấy không phải là vấn đề dũng cảm chút nào, đó là điều đầu tiên cần được hiểu. Đó là vấn đề về sáng tỏ, về việc rõ ràng cái gì là cái gì.
Và điều thứ hai, bất kì khi nào thực sự có vấn đề dũng cảm, không ai có thể trao nó cho bạn được. Nó không phải là cái gì đó có thể được đem tặng như món quà. Nó là cái gì đó mà bạn được sinh ra cùng với nó, bạn đã không cho phép nó phát triển, bạn đã không cho phép nó tự khẳng định mình.
HỒN NHIÊN LÀ CẢ DŨNG CẢM VÀ SÁNG TỎ. Không có nhu cầu phải dũng cảm nếu bạn hồn nhiên. Cũng không có nhu cầu về bất kì sự sáng tỏ nào bởi vì chẳng cái gì có thể thể sáng tỏ hơn, sáng rõ như pha lê, hơn hồn nhiên. Cho nên toàn thể vấn đề này là làm sao bảo vệ hồn nhiên riêng của người ta.
Hồn nhiên không phải là cái gì đó cần đạt tới. Nó không phải là cái gì đó cần được học. Nó không phải là cái gì đó giống như tài năng: hội hoạ, âm nhạc, thơ ca, điêu khắc. Nó không giống những điều này. Nó giống nhiều hơn với việc thở, cái gì đó bạn được sinh ra cùng với nó.
Hồn nhiên là bản tính của mọi người. Không ai được sinh ra lại khác với hồn nhiên.
Làm sao người ta có thể được sinh ra mà khác hồn nhiên được? Việc sinh có nghĩa là bạn đã đi vào thế giới này như một tabula rasa[1], không cái gì được viết lên bạn. Bạn chỉ có tương lai, không quá khứ. Đó là ý nghĩa của hồn nhiên. Cho nên trước hết cố gắng hiểu tất cả mọi ý nghĩa của hồn nhiên.
Điều thứ nhất là: không quá khứ, chỉ tương lai.
Quá khứ làm biến chất bởi vì nó cho bạn kí ức, kinh nghiệm trông đợi. Tất cả những điều đó tổ hợp lại với nhau làm cho bạn láu lỉnh nhưng không sáng tỏ. Chúng làm cho bạn tinh ranh nhưng không thông minh. Chúng có thể giúp bạn thành công trong thế giới này nhưng ở bản thể bên trong nhất của mình, bạn sẽ là thất bại. Và tất cả mọi thành công của thế giới này đều chẳng có nghĩa gì nếu được so sánh với thất bại mà chung cuộc bạn sẽ đối diện, bởi vì chung cuộc chỉ cái ta bên trong của bạn mới còn lại với bạn. Tất cả đều mất đi: vinh quang của bạn, quyền lực của bạn, tên tuổi bạn, danh tiếng của bạn - tất cả bắt đầu biến mất như cái bóng.
Đến cuối cùng cái duy nhất còn lại chính là cái bạn đã mang ngay từ chính lúc đầu. Bạn có thể lấy đi từ thế giới này chỉ cái bạn đã mang vào nó.
Ở Ấn Độ người từng trải thông thường coi thế giới này là phòng chờ trong ga xe lửa; nó không phải là nhà bạn. Bạn không ở lại trong phòng đợi mãi mãi. Chẳng cái gì trong phòng đợi thuộc về bạn cả - đồ đạc, các bức tranh trên tường... Bạn dùng chúng - bạn nhìn bức tranh, bạn ngồi trên ghế, bạn nghỉ trên giường - nhưng chẳng cái gì thuộc vào bạn cả. Bạn chỉ ở đây vài phút thôi, hay vài giờ là nhiều nhất, thế rồi bạn sẽ qua đi.
Vâng, cái bạn đã mang vào cùng mình, vào phòng đợi, bạn sẽ mang đi cùng mình; cái đó là của bạn. Bạn đã mang cái gì vào thế giới này? Và thế giới này chắc chắn là phòng đợi rồi. Việc chờ đợi có thể không phải trong vài giây, vài phút, vài giờ, vài ngày, nó có thể là nhiều năm; nhưng có thành vấn đề gì dù bạn đợi bẩy giờ hay bẩy mươi năm?
Bạn có thể quên, trong bẩy mươi năm, rằng bạn chỉ đang trong phòng đợi. Bạn có thể bắt đầu nghĩ có lẽ bạn là người chủ, có lẽ đây là ngôi nhà bạn đã xây nên. Bạn có thể bắt đầu đặt biển tên mình lên phòng đợi.
Có những người - tôi đã thấy điều đó, bởi vì tôi đã từng du hành nhiều thế: mọi người đã viết tên mình trong nhà tắm của phòng đợi. Mọi người đã khắc tên mình lên đồ đạc trong phòng đợi. Điều đó có vẻ ngu xuẩn, nhưng điều đó rất giống với điều mọi người làm trong thế giới này.
Có một câu chuyện rất có ý nghĩa về kinh sách Jaina cổ đại. Ở Ấn Độ người ta tin rằng nếu ai đó có thể trở thành hoàng đế của toàn thế giới thì người đó được gọi là chakravartin. Từ chakravartin đơn giản ngụ ý... chakra nghĩa là bánh xe. Ở Ấn Độ cổ đại nó là cách tránh việc tranh đấu và bạo hành không cần thiết: chiếc xe, chiếc xe bằng vàng, rất có giá trị, với những con ngựa khoẻ và đẹp, sẽ đi từ vương quốc này sang vương quốc khác. Nếu vương quốc kia không chống lại và để cho chiếc xe đi qua, điều đó ngụ ý rằng vương quốc này đã chấp nhận người chủ của chiếc xe kia là bề trên của mình. Thế thì không cần đánh nhau.
Theo cách này chiếc xe sẽ đi, và bất kì chỗ nào mọi người cản trở chiếc xe thì sẽ có chiến tranh. Nếu chiếc xe không bị cản trở ở đâu cả, thế thì không có chiến tranh mà tính chất ưu việt của nhà vua này lại được chứng minh: ông ấy trở thành chakravartin - người có bánh xe lăn đi khắp nơi và người mà không ai có thể cản trở lại được. Đây đã từng là ham muốn của mọi nhà vua, trở thành một chakravartin.
Chắc điều đó cần mạnh hơn Alexander Đại đế đã mạnh. Chỉ phái mỗi chiếc xe đi thôi... điều đó cần sức mạnh ghê gớm để hỗ trợ cho nó. Nó cần chắc chắn nào đó rằng nếu chiếc xe bị cản trở, sẽ có tàn sát lớn lao. Điều đó nghĩa là con người này đã được thừa nhận, rằng nếu người đó muốn chinh phục bất kì ai, không có cách nào ngăn cản người đó chinh phục bạn.
Nhưng đó là cách thức rất tượng trưng, văn minh hơn. Không cần tấn công, không cần bắt đầu giết hại; chỉ gửi đi một thông điệp tượng trưng. Cho nên với lá cờ của nhà vua chiếc xe sẽ đi, và nếu nhà vua kia cảm thấy rằng chẳng có ích gì mà chống lại - rằng đánh nhau đơn giản nghĩa là thất bại và bạo hành, huỷ diệt không cần thiết - nhà vua đón chào chiếc xe, và trong kinh đô của mình hoa được tung lên chiếc xe.
Điều này dường như còn văn minh hơn nhiều so với điều các nước như Liên Xô và Mĩ đang làm. Chỉ gửi đi một chiếc xe đẹp - nhưng điều đó có nghĩa là sức mạnh của bạn phải là cái gì đó tuyệt đối chắc chắn cho bạn; và không chỉ cho bạn, nó nên là chắc chắn cho mọi người khác. Chỉ thế thì một biểu tượng như vậy mới có ích. Cho nên mọi nhà vua đều có ham muốn trở thành một chakravartin một ngày nào đó.
Câu chuyện là ở chỗ một người đã trở thành chakravartin - và điều xảy ra là chỉ một lần trong nhiều nghìn năm mới có một người trở thành chakravartin. Ngay cả Alexander Đại đế cũng không phải là người chinh phục thế giới; có nhiều chỗ bị bỏ lại không chinh phục được. Và ông ta đã chết khi còn rất trẻ, ông ta mới ba mươi ba: thậm chí không đủ thời gian để chinh phục thế giới. Nói gì tới chinh phục, thậm chí toàn thế giới cũng chẳng được biết tới! Một nửa thế giới cũng chẳng được biết tới, mà cái nửa đã được biết đó, thậm chí nó cũng không được chinh phục. Con người này, người tôi sắp kể cho bạn câu chuyện, đã trở thành chakravartin.
Tương truyền khi một chakravartin chết - bởi vì một chakravartin xảy ra chỉ một lần trong hàng nghìn năm, ông ấy là người hiếm hoi - khi ông ấy chết ông ấy được đón nhận lên trời trong niềm hân hoan lớn lao và ông ấy được đưa tới một chỗ đặc biệt.
Theo huyền thoại Jaina, trên trời có dãy núi song song với Himalaya. Himalaya được làm từ đá và đất và băng. Himalaya song song trên trời được gọi là Sumeru. Sumeru nghĩa là núi tối thượng: không cái gì có thể cao hơn cái đó. Nó là vàng khối; thay vì là đá có kim cương và hồng ngọc và lục ngọc.
Khi một chakravartin chết ông ấy được đưa tới núi Sumeru để khắc tên ông ấy vào núi. Đó là cơ hội hi hữu; điều đó chỉ xảy ra một lần trong nhiều nghìn năm. Tất nhiên con người này kích động vô cùng rằng mình sẽ viết tên lên Sumeru. Đó là danh sách tối thượng của tất cả những con người vĩ đại đã từng hiện hữu, và nó cũng sẽ là bản danh mục của những người vĩ đại sắp tới. Hoàng đế này trở thành người tham gia vào dòng truyền thừa của các siêu nhân.
Người giữ cổng đưa cho ông ấy bản hướng dẫn khắc tên mình. Ông ấy muốn đem theo vài người của mình, những người đã tự tử chỉ bởi vì hoàng đế của mình sắp chết - họ không thể nghĩ tới việc sống mà thiếu ông ấy. Vợ ông ấy, tể tướng, tướng chỉ huy của ông ấy, tất cả những người vĩ đại ở quanh ông ấy đều tự tử, cho nên họ đã tới cùng ông ấy.
Hoàng đế muốn người giữ cổng cho tất cả họ vào để xem ông ấy khắc tên mình, vì phỏng có gì vui nếu bạn đi một mình và khắc tên mình mà chẳng ai có đó để mà xem? - bởi vì niềm vui thật là ở chỗ toàn thế giới sẽ nhìn.
Người giữ cổng nói, "Ông nghe lời khuyên của tôi đây, bởi vì đây là nghề cha truyền con nối của tôi.
Bố tôi đã là người giữ cổng, bố ông ấy cũng là người giữ cổng; trong nhiều thế kỉ chúng tôi đã là người giữ cổng cho núi Sumeru. Nghe lời khuyên của tôi: Đừng đem họ đi cùng ông; bằng không ông sẽ hối hận đấy."
Hoàng đế không thể nào hiểu nổi, nhưng ông ấy thậm chí cũng không thể đi ngược lại lời khuyên này - vì có lợi gì mà người này lại đi ngăn cản ông ấy?
Người giữ cổng nói, "Nếu ông vẫn muốn họ vào xem, trước hết hãy khắc tên ông đi đã; thế rồi quay lại và đem họ đi cùng ông nếu ông muốn. Tôi không phản đối cho dù bây giờ ông muốn đem họ vào, nhưng chỉ trong trường hợp ông quyết định không đưa vào, thế thì sẽ không có cơ hội nào để thay đổi tâm trí ông... họ sẽ ở cùng với ông. Ông đi một mình đi." Đây hoàn toàn là lời khuyên lành mạnh.
Hoàng đế nói, "Tốt đấy. Ta sẽ đi một mình, khắc tên ta vào, quay lại và gọi tất cả các ông."
Người giữ cổng nói, "Tôi hoàn toàn thoải mái với điều đó."
Hoàng đế đi vào và ông ta thấy Sumeru sáng lên dưới hàng nghìn mặt trời - bởi vì trên trời bạn không thể nghèo tới mức chỉ có một mặt trời - hàng nghìn mặt trời, và núi vàng còn lớn hơn nhiều so với Himalaya - và Himalaya dài gần hai nghìn dặm! Ông ấy không thể nào mở được mắt ra trong một chốc, nó chói loà thế ở đó. Và thế rồi ông ấy bắt đầu tìm chỗ, đúng chỗ, nhưng ông ấy rất phân vân: không có chỗ; toàn thể quả núi đều được khắc đầy những tên.
Ông ấy không thể nào tin được vào mắt mình. Lần đầu tiên ông ấy trở nên nhận biết mình là gì. Mãi cho tới giờ ông ấy vẫn nghĩ mình là siêu nhân chỉ xảy ra một lần trong hàng nghìn năm. Nhưng thời gian là từ vĩnh hằng; ngay cả hàng nghìn năm cũng chẳng tạo ra khác biệt gì, biết bao nhiêu chakravartin đã từng xảy ra rồi. Không còn chỗ trên quả núi lớn nhất đó trong cả vũ trụ nơi ông ấy có thể viết cái tên nhỏ bé của mình lên.
Ông ấy quay lại, và bây giờ ông ấy đã hiểu rằng người giữ cổng là đúng khi không cho vợ ông ấy và các tướng chỉ huy và tể tướng của ông ấy và những người bạn thân thiết khác vào. Cũng tốt là họ đã không thấy tình huống này. Họ vẫn có thể tin rằng hoàng đế của họ là người hiếm hoi.
Ông ấy bảo người giữ cổng vào bên trong và ông ấy nói, "Nhưng không còn chỗ nữa!"
Người giữ cổng nói, "Đó là điều tôi đã bảo ông. Điều ông phải làm là xoá đi vài cái tên và viết tên của ông vào. Đó là điều đã được làm; cả đời mình tôi đã thấy điều này được làm, bố tôi thường nói điều này đã được làm. Bố của bố tôi - không ai trong gia đình tôi đã từng thấy Sumeru trống rỗng, hay còn chỗ nào.
"Bất kì khi nào một chakravartin mà tới thì người đó đều phải xoá đi vài cái tên và viết tên riêng của mình vào. Cho nên đây không phải là toàn thể lịch sử của các chakravartins. Nhiều lần nó đã bị xoá đi, nhiều lần, nó đã được khắc vào. Ông làm việc của mình đi, và thế rồi nếu ông muốn chỉ cho bạn bè mình ông có thể đưa họ vào."
Hoàng đế nói, "Không, tôi không muốn cho họ xem và tôi không muốn ngay cả việc viết tên mình. Phỏng có ích gì? - một ngày nào đó ai đó sẽ tới và xoá nó đi.
"Toàn thể cuộc sống của tôi đã trở thành hoàn toàn vô nghĩa. Đây đã là hi vọng duy nhất của tôi, rằng Sumeru, quả núi vàng trên trời sẽ có tên tôi. Vì điều này tôi đã sống, vì điều này tôi đã liều cả cuộc sống của mình; vì điều này tôi đã sẵn sàng giết toàn thể thế giới. Và bất kì ai khác cũng đều có thể xoá tên tôi đi và viết tên mình vào. Phỏng có ích gì mà viết nó đây? Tôi sẽ không viết tên đâu." Người giữ cổng cười to.
Hoàng đế nói, "Sao ông lại cười?"
Người giữ cổng nói, "Điều này kì lạ đây, bởi vì điều này nữa tôi đã từng nghe từ ông nội tôi - rằng chakravartin tới, và thấy toàn thể câu chuyện này, đều quay lại; họ không viết tên mình nữa. Ông không phải là mới: bất kì ai có chút ít thông minh cũng sẽ làm hệt như vậy."
Trong toàn thế giới này bạn có thể kiếm được cái gì? Bạn có thể đem cái gì đi cùng mình? Tên tuổi bạn, uy tín của bạn, kính trọng của bạn ư? Tiền của bạn, quyền lực của bạn - cái gì? Uyên bác của bạn sao? Bạn không thể đem được cái gì đi cả. Mọi thứ sẽ phải bị vứt lại ở đây. Và trong khoảnh khắc đó bạn sẽ hiểu rằng tất cả mọi thứ bạn đã sở hữu đều không phải là của bạn; chính ý tưởng sở hữu là sai. Và bởi vì việc sở hữu đó mà bạn bị biến chất.
Làm tăng sự sở hữu đó - có nhiều tiền hơn, có nhiều quyền lực hơn, chinh phục nhiều đất đai hơn - bạn đã làm những điều mà ngay cả bạn cũng không thể nói là đúng được. Bạn đã nói dối, bạn đã không chân thực. Bạn đã có hàng trăm bộ mặt. Bạn đã không thực cho dù chỉ một khoảnh khắc với bất kì ai hay với chính mình; bạn không thể hiện hữu được. Bạn phải giả tạo, rởm, giả vờ, bởi vì đây là những thứ giúp cho bạn thành công trong thế giới này. Tính đích thực sẽ không giúp gì cho bạn cả. Sự chân thực sẽ không giúp ích gì cho bạn cả. Tính chân lí sẽ không giúp ích gì cho bạn cả.
Không sở hữu, thành công, danh vọng, bạn là ai? Bạn không biết. Bạn là cái tên của mình, bạn là danh tiếng của mình, bạn là uy tín của mình, quyền lực của mình. Nhưng khác hơn những điều này, bạn là ai? Cho nên toàn thể tính sở hữu trở thành sự đồng nhất của bạn. Nó cho bạn cảm giác giả tạo về hiện hữu. Đó là bản ngã.
Bản ngã không phải là cái gì đó bí ẩn, nó là một hiện tượng rất đơn giản. Bạn không biết mình là ai, và sống mà không biết mình là ai là điều không thể được. Nếu tôi không biết tôi là ai, thế thì tôi đang làm gì ở đây? Thế thì bất kì điều gì tôi làm cũng đều trở thành vô nghĩa. Điều đầu tiên và cao nhất là biết mình là ai. Có lẽ thế thì tôi mới có thể làm điều gì đó hoàn thành cho bản tính của tôi, làm cho tôi được mãn nguyện, đem tôi về nhà.
Nhưng nếu tôi không biết mình là ai, và tôi cứ làm mọi thứ, làm sao tôi có thể xoay xở tới được chỗ bản tính của tôi được giả định đạt tới, dẫn tới? Tôi đã chạy hết chỗ nọ chỗ kia nhưng chẳng có điều gì tôi có thể nói, "Bây giờ mình đã đạt tới rồi, đây là chỗ mình đã từng tìm kiếm."
Bạn không biết mình là ai, cho nên một căn cước giả tạo nào đó là cần thiết như cái thay thế. Sở hữu của bạn cho bạn căn cước giả tạo đó.
Bạn tới với một người quan sát hồn nhiên vào thế giới này. Mọi người đều tới theo cùng cách, với cùng phẩm chất của tâm thức. Nhưng bạn bắt đầu mặc cả với thế giới của những người đã trưởng thành. Họ có nhiều thứ cho bạn; bạn chỉ có một thứ để cho, và đó là tính chính trực của bạn, lòng tự trọng của bạn. Bạn không có nhiều, chỉ một thứ thôi - bạn có thể gọi nó là bất kì cái gì: hồn nhiên, thông minh, tính đích thực. Bạn chỉ có một thứ.
Và đứa trẻ tự nhiên rất quan tâm tới mọi thứ nó thấy xung quanh. Nó liên tục muốn có cái này, có cái nọ; đó là một phần của bản tính con người. Nếu bạn nhìn vào đứa trẻ nhỏ, ngay cả đứa trẻ mới sinh, bạn có thể thấy nó đã bắt đầu dò dẫm vì cái gì đó; tay nó đang cố gắng tìm cái gì đó. Nó đã bắt đầu cuộc hành trình.
Trong cuộc hành trình này nó sẽ làm mất bản thân mình, bởi vì bạn không thể có được cái gì trong thế giới này mà không trả lại cho nó. Và đứa trẻ đáng thương không thể hiểu được rằng cái nó đem cho đi lại quí giá tới mức nếu toàn thể thế giới có ở một bên, và tính chính trực của nó ở bên kia, thì thế nữa tính chính trực của nó vẫn nặng hơn, có giá trị hơn. Đứa trẻ không có cách nào biết được điều đó. Đây là vấn đề, bởi vì cái nó có được, nó đơn giản có được. Nó lấy cứ như được cho không.
Để tôi kể cho bạn một câu chuyện sẽ làm cho điều đó thành rõ ràng.
Một người giầu, rất giầu, cuối cùng đã trở nên rất thất vọng - cũng là kết quả tự nhiên của mọi thành công. Chẳng cái gì thất bại như thành công. Thành công có ý nghĩa chỉ nếu bạn thất bại. Một khi bạn thành công, bạn biết rằng bạn đã bị lừa bởi thế giới, bởi mọi người, bởi xã hội. Người này có mọi sự giầu có nhưng lại không an bình tâm trí. Người đó bắt đầu tìm an bình tâm trí.
Đó là điều đang xảy ra ở Mĩ. Ở Mĩ mọi người đều đi tìm an bình tâm trí hơn bất kì nơi nào khác. Ở Ấn Độ tôi chưa bao giờ bắt gặp người đang đi tìm an bình tâm trí. An bình dạ dầy phải được chăm lo trước hết - an bình tâm trí còn quá xa vời. Từ dạ dầy tới tâm trí cách xa nhau gần như cả triệu dặm.
Nhưng ở Mĩ mọi người đều đi tìm an bình tâm trí, và tất nhiên khi bạn đi tìm nó, thế thì sẽ có người sẵn sàng trao nó cho bạn. Đây là luật kinh tế đơn giản: bất kì chỗ nào có cầu sẽ có cung. Chẳng thành vấn đề liệu bạn đang đòi hỏi cái gì cho nhu cầu thực của mình. Mà cũng chẳng ai bận tâm về việc cung sẽ trao cho bạn cái gì - liệu đấy chỉ là quảng cáo, tuyên truyền hư huyễn, hay có cái gì đó bản chất.
Việc biết nguyên tắc đơn giản này, rằng bất kì chỗ nào có cầu thì sẽ có cung, người tinh ranh và láu lỉnh đã tiến thêm một bước nữa. Bây giờ họ nói, "Không cần chờ đợi cầu xảy ra, ta tạo ra cầu." Và đó là toàn bộ nghệ thuật quảng cáo: nó tạo ra nhu cầu.
Trước khi đọc quảng cáo bạn không có nhu cầu như vậy, bạn chưa bao giờ cảm thấy rằng đây là cái cần cho bạn. Nhưng đọc quảng cáo, bỗng nhiên bạn cảm thấy, "Trời đất, mình đã bỏ lỡ nó rồi. Và mình lại là kẻ ngu tới mức mình chẳng bao giờ biết điều này tồn tại."
Trước khi ai đó bắt đầu chế tạo ra cái gì đó, sản xuất ra cái gì đó, thậm chí nhiều năm sắp tới - ba, bốn năm tới - người đó bắt đầu quảng cáo. Thứ này còn chưa có đó trên thị trường bởi trước hết nhu cầu phải vươn tới tâm trí mọi người. Và một khi cầu có đó, thì đến lúc đó cung sẽ sẵn sàng.
Bernard Shaw đã nói rằng khi ông ấy mới nổi và ông ấy xuất bản cuốn sách đầu tiên của mình, tất nhiên không có nhu cầu - chẳng ai đã từng nghe nói tới George Bernard Shaw. Làm sao bạn có thể yêu cầu, "Tôi muốn cuốn sách của George Bernard Shaw, vở kịch của ông ấy?" Cho nên điều ông ấy thường làm cả ngày... Ông ấy xuất bản sách - bản thân ông ấy là nhà xuất bản, ông ấy đổ tiền của mình vào - và thế rồi ông ấy đi từ hiệu sách nọ sang hiệu sách kia mà hỏi, "Các ông có sách của George Bernard Shaw không?"
Họ nói, "George Bernard Shaw nào? Chúng tôi chưa bao giờ nghe thấy cái tên này."
Ông ấy nói, "Kì lạ thế, một người vĩ đại thế mà các ông lại chưa bao giờ biết tới ông ấy và các ông lại quản lí cả hiệu sách? Các ông có bị lạc hậu hay cái gì đó không? Điều đầu tiên các ông phải làm là lấy sách của George Bernard Shaw." Ông ấy đã xuất bản mỗi một cuốn sách nhưng ông ấy đã bắt đầu quảng cáo cho nhiều cuốn sách, bởi vì khi đi đây đó, tại sao lại chỉ quảng cáo có một cuốn sách thôi? Và một cuốn sách không làm cho người ta thành nhà văn lớn.
Ông ấy sẽ đi trong các bộ trang phục khác nhau - lúc thì có mũ, lúc thì có kính. Và mọi người bắt đầu dừng lại nhà George Bernard Shaw. Và ông ấy phải làm tất cả những điều này - quảng cáo, cung cấp; đó là cách ông ấy đã bán cuốn sách đầu tiên của mình. Ông ấy hỏi mọi người trên phố, "Ông đã đọc chưa ... bởi vì tôi nghe nói nhiều về cuốn sách nào đó do một ông George Bernard Shaw nào đó viết. Mọi người nói nó hay lắm, kì thú lắm. Ông có biết không?"
Họ sẽ nói, "Không, chúng tôi chưa bao giờ biết tới cái tên đó."
Ông ấy nói, "Điều này lạ thật. Tôi cứ tưởng London là xã hội có văn hoá." Và ông ấy đi tới thư viện và câu lạc bộ và ở mọi nơi có khả năng tạo ra nhu cầu, và ông ấy đã tạo ra nhu cầu này. Ông ấy đã bán sách, và chung cuộc - đó là điều ông ấy đã liên tục làm - chung cuộc ông ấy đã trở thành một trong những nhà văn vĩ đại nhất của thời đại này. Ông ấy đã tạo ra nhu cầu.
Nhưng nếu bạn thành công, chẳng cần bất kì ai tạo ra nhu cầu an bình tâm trí. Nếu bạn thành công, bạn sẽ đánh mất sự an bình tâm trí theo một cách nào đó. Đó là tiến trình tự nhiên. Thành công lấy đi mọi an bình khỏi tâm trí bạn. Nó đơn giản hút hết mọi thứ có ý nghĩa trong cuộc sống: an bình, im lặng, vui sướng, tình yêu. Nó cứ lấy đi mọi thứ khỏi bạn. Chung cuộc tay bạn đầy những đồ đồng nát, và mọi thứ có giá trị đều bị mất. Và bỗng nhiên bạn nhận ra cần có an bình tâm trí.
Lập tức có nhà cung cấp, người không biết gì về tâm trí cả, người không biết gì về an bình cả. Tôi đã đọc một cuốn sách mang tựa đề An bình của tâm trí của một giáo sĩ Do Thái, Joshua Liebman. Tôi đã đọc qua toàn bộ cuốn sách này; ông này chẳng biết gì về an bình cũng chẳng biết gì về tâm trí cả. Nhưng ông ấy là nhà kinh doanh. Ông ấy đã làm một việc tốt mà chẳng biết gì về an bình tâm trí cả.
Cuốn sách của ông ấy là một trong những cuốn sách bán chạy nhất trên thế giới bởi vì bất kì ai muốn an bình tâm trí sớm hay muộn nhất định phải tìm tới sách của Joshua Liebman. Và ông ấy đã viết nó thực hay. Ông ấy là nhà văn giỏi, rất thạo nói chuyện, gây ấn tượng; bạn sẽ bị ảnh hưởng bởi điều đó. Nhưng an bình tâm trí sẽ vẫn còn xa xăm như nó đã vậy trước đây, hay nó thậm chí còn có thể ra xa hơn bằng việc bạn đọc cuốn sách này.
Thực tế, nếu một người biết an bình là gì, và tâm trí là gì, người đó không thể viết ra cuốn sách với tựa đề An bình của tâm trí, bởi vì tâm trí là nguyên nhân của mọi sự không an bình, tất cả mọi bất ổn của nó. An bình là khi không có tâm trí. Cho nên an bình tâm trí - không hàng hoá nào như thế này tồn tại cả.
Nếu tâm trí có đó, thế thì an bình không có đó. Nếu an bình có đó thế thì tâm trí không có. Nhưng viết cuốn sách "An bình của vô trí "... không ai sẽ mua nó đâu. Tôi đã từng nghĩ... nhưng tôi đã nghĩ, chẳng ai đi mua "An bình của vô trí" đâu. Điều đó sẽ không tạo ra cảm giác cho họ, nhưng điều đó đích xác là chân lí.
Đứa trẻ là không nhận biết về điều nó đã đem theo mình. Người giầu này đang ở cùng hoàn cảnh. Người đó có tất cả mọi giầu sang trên thế giới này, và bây giờ người đó đang đi tìm an bình tâm trí. Người đó đi hết hiền nhân nọ sang hiền nhân kia và tất cả đều cho những lời khuyên lớn lao, nhưng lời khuyên lại chẳng giúp được cho ai cả.
Thực tế chỉ kẻ ngu mới cho lời khuyên, và chỉ kẻ ngu mới nhận lời khuyên. Người trí huệ rất ngần ngại cho bạn lời khuyên bởi vì người trí huệ chắc chắn biết rằng điều duy nhất trên thế giới này được cho không là lời khuyên, và rằng cái không bao giờ được lấy đi bởi bất kì ai là lời khuyên, cho nên sao phải bận tâm?
Người trí huệ trước hết chuẩn bị bạn để cho bạn có thể nhận được lời khuyên. Người đó không đơn giản cho bạn lời khuyên; bạn cần được chuẩn bị. Có thể phải mất nhiều năm để chuẩn bị bạn, để chuẩn bị mảnh đất, và chỉ thế thì bạn mới có thể gieo được hạt mầm. Sẽ là người ngu nếu bạn cứ đơn giản vung vãi hạt giống lên đá tảng và đá cuội mà thậm chí chẳng bận tâm rằng mình đang phí hoài hạt mầm.
Tất cả các hiền nhân đều cho người đó lời khuyên nhưng chẳng cái gì thành công cả. Cuối cùng một người mà người đó đã không hỏi, người theo bất kì cách nào đều không là người nổi tiếng - ngược lại người bị coi là kẻ ngốc của làng - người này một hôm chặn ông ta lại giữa đường và nói, "Ông làm phí hoài không cần thiết thời gian của mình: chẳng ai trong số người đó là hiền nhân đâu. Tôi biết tỏng về họ, nhưng bởi vì tôi là kẻ ngốc nên chẳng ai tin tôi cả. Có lẽ ông cũng sẽ không tin tôi, nhưng tôi biết một hiền nhân.
"Cứ thấy ông bị hành hạ liên tục thế về an bình tâm trí, tôi nghĩ tốt hơn cả là tôi chỉ cho ông đúng người. Bằng không tôi là kẻ ngốc; chẳng ai hỏi tôi về lời khuyên và tôi cũng chẳng bao giờ cho bất kì ai bất kì lời khuyên nào. Nhưng điều đó là quá đáng: thấy ông buồn thế và khổ thế, tôi phá vỡ im lặng của mình. Ông tới người này ở làng bên cạnh."
Người giầu này đi ngay lập tức, mang theo một cái túi lớn đầy những kim cương quí giá, trên con ngựa đẹp của mình. Ông ấy tới đó, ông ấy thấy người đó - người đã được người Sufi biết tới chính là Mulla Nasruddin.
Ông ta hỏi Mulla, "Ông có thể giúp tôi an bình tâm trí được không?"
Mulla nói, "Giúp à? Tôi có thể đem nó cho ông được đấy."
Người giầu nghĩ, "Điều này thật kì lạ. Trước hết kẻ ngốc kia đã gợi ý... và chỉ vì thất vọng mà mình nghĩ cũng chẳng hại gì, cho nên mình mới tới đây. Kẻ này dường như thậm chí còn là kẻ ngốc lớn hơn: anh ta nói, 'Tôi có thể đem nó cho ông được đấy.'"
Người giầu nói, "Ông có thể đem nó cho tôi sao? Tôi đã từng ở với đủ mọi loại hiền nhân; họ tất cả đều cho lời khuyên - làm cái này, làm cái nọ, tự xếp mình vào kỉ luật, làm từ thiện, giúp người nghèo, mở bệnh viện, thế này thế nọ. Họ nói tất cả những điều này, và trong thực tế tôi đã làm tất cả những điều đó; chẳng cái gì có ích cả. Thực tế ngày càng nhiều rắc rối nảy sinh hơn. Và ông nói ông có thể đem nó cho tôi sao?"
Mulla nói, "Đơn giản lắm. Ông xuống ngựa đi." Thế là người giầu xuống ngựa. Ông ta vẫn cầm chiếc túi của mình, và Mulla hỏi, "Ông đang giữ cái gì trong túi gần tim ông thế?"
Ông ta nói, "Đây toàn là kim cương quí giá cả. Nếu ông có thể cho tôi an bình, tôi sẽ cho ông cái túi này|." Nhưng trước khi ông ta thậm chí có thể hình dung ra điều gì xảy ra, Mulla đã lấy mất chiếc túi và chạy biến!
Người giầu này, trong một chốc, bị choáng váng; ông ta thậm chí không thể hiểu nổi phải làm gì. Và thế rồi ông ta phải đuổi theo anh ta. Nhưng đấy là thị trấn riêng của Mulla - anh ta biết mọi phố xá và lối tắt, và anh ta lại chạy nữa. Người giầu này chưa bao giờ chạy cả đời mình và ông ta béo thế... Ông ta kêu khóc và thở hổn hển và phì phò, và nước mắt lăn dài. Ông ta nói, "Tôi đã bị lừa hoàn toàn rồi! Người này đã lấy đi công trình khó nhọc của cả đời tôi, nguồn sống của tôi; mọi thứ nó đã lấy đi mất rồi."
Thế là một đám đông theo sau, và tất cả đều cười. Ông ta nói, "Các ông có là lũ ngốc hết cả không đấy? Thị trấn này đầy những kẻ ngốc sao? Tôi đã bị kiệt sức hoàn toàn, và thay vì bắt lấy kẻ trộm thì các ông lại cười."
Họ nói, "Anh ta không phải là kẻ trộm đâu, anh ta là người rất hiền đấy."
Người giầu nói, "Kẻ ngốc kia ở làng tôi đã đẩy tôi vào rắc rối này!" Nhưng bằng cách nào đó, chạy, toát mồ hôi, ông ta cũng đuổi theo được Mulla. Mulla quay lại dưới cùng cái cây nơi con ngựa đang đứng. Anh ta ngồi xuống dưới gốc cây cùng chiếc túi, và người giầu tới vừa kêu vừa khóc. Mulla nói, "Ông cầm lấy cái túi này đi." Người giầu cầm lấy cái túi và lại đưa nó về gần tim mình. Mulla nói, "Ông cảm thấy thế nào? Ông có thể cảm thấy an bình tâm trí nào đó không?"
Người giầu nói, "Có tôi cảm thấy rất an bình. Ông là người kì lạ thật, và ông có phương pháp kì lạ."
Mulla nói, "Chẳng phương pháp kì lạ nào cả - chỉ là toán học đơn giản thôi. Bất kì cái gì ông có, ông bắt đầu coi nó như được cho không. Ông chỉ phải được trao cho một cơ hội để làm mất nó đi; thế thì ngay lập tức ông sẽ trở nên nhận biết về cái ông đã mất. Ông chẳng thu được cái gì mới cả; nó vẫn là cùng cái túi mà ông đã mang đi mà không có an bình tâm trí. Bây giờ cũng cái túi đó ông đang giữ gần tim mình và bất kì ai cũng đều có thể thấy ông trông an bình làm sao, một hiền nhân hoàn hảo! Về nhà đi, và đừng bận tâm tới mọi người."
Đây là vấn đề cho trẻ con, bởi vì nó tới với hồn nhiên và nó sẵn sàng mua bất kì cái gì, và đổi cái hồn nhiên của mình. Nó sẵn sàng mua bất kì rác rưởi nào đánh đổi bằng dũng cảm của mình. Nó sẵn sàng mua chỉ đồ chơi thôi - và cái gì khác có đó trong thế giới này ngoài đồ chơi? - và đánh mất sự sáng tỏ của mình. Nó sẽ chỉ hiểu ra khi tất cả những đồ chơi này có đó trong sở hữu của nó và nó không thể cảm thấy bất kì niềm vui nào từ chúng, không thể thấy bất kì thành quả nào, bất kì sự hoàn thành nào. Thế thì nó trở nên nhận biết về điều nó đã đánh mất - và bản thân nó đã đánh mất điều đó.
Trong một thế giới tốt hơn, mọi gia đình sẽ học từ con cái. Bạn đang vội vã dạy chúng thế. Dường như không ai học từ chúng cả, và chúng có nhiều điều để dạy bạn. Và bạn chẳng có gì để dạy chúng cả.
Chỉ bởi vì bạn già hơn và mạnh hơn mà bạn bắt đầu làm cho chúng giống như bạn mà chẳng hề nghĩ tới bạn là gì, bạn đã đạt tới đâu, trạng thái của bạn là gì trong thế giới bên trong. Bạn là người nghèo túng; và bạn muốn điều tương tự cho con bạn sao?
Nhưng chẳng ai nghĩ cả; bằng không thì mọi người sẽ học được từ trẻ nhỏ rồi. Trẻ con đem nhiều thứ từ thế giới khác tới, bởi vì chúng là những người mới tới tươi tắn thế. Chúng vẫn mang im lặng của bụng mẹ, im lặng của chính sự tồn tại này.
BAO GIỜ CŨNG HÃY NHỚ, TIN CẬY VÀO CÁI KHÔNG BIẾT. Cái biết là tâm trí. Cái không biết không thể là tâm trí được. Nó có thể là cái gì đó khác nhưng nó không thể là tâm trí được. Một điều chắc chắn về tâm trí là ở chỗ tâm trí là cái đã biết được tích luỹ lại. Cho nên, chẳng hạn, nếu bạn bắt gặp ngã ba đường và tâm trí nói 'Đi theo đường này, đường này là quen thuộc' - đó là tâm trí. Nếu bạn nghe theo bản thể mình, nó sẽ muốn đi theo cái không quen thuộc, cái không biết. Bản thể bao giờ cũng là kẻ phiêu lưu. Tâm trí lại rất chính thống, rất bảo thủ. Nó muốn đi theo rãnh, theo con đường mòn, lặp đi lặp lại - con đường ít trở ngại nhất.
Cho nên bao giờ cũng nghe theo cái không biết đi. Và thu lấy dũng cảm để đi vào cái không biết.
Trưởng thành theo định mệnh của bạn cần dũng cảm lớn lao, nó cần vô sợ hãi. Những người đầy sợ hãi không thể vượt ra ngoài cái đã biết. Cái đã biết cho một loại thoải mái, an ninh, an toàn nào đó bởi vì nó đã được biết tới. Người ta hoàn toàn nhận biết, người ta biết cách đối phó nó. Người ta có thể vẫn còn gần như ngủ và cứ đối phó nó - không cần phải thức tỉnh; đó là tiện lợi với cái đã biết.
Khoảnh khắc bạn bước qua biên giới của cái đã biết, sợ hãi nảy sinh, bởi vì bây giờ bạn sẽ dốt nát, bây giờ bạn sẽ không biết cái gì cần làm, cái gì không cần làm. Bây giờ bạn sẽ không chắc chắn như thế về bản thân mình, bây giờ có thể phạm phải sai lầm, bạn có thể đi lạc lối. Đó là nỗi sợ làm cho mọi người bị giới hạn vào cái đã biết, và một khi một người bị giới hạn vào cái đã biết, người đó chết.
Cuộc sống chỉ có thể được sống một cách nguy hiểm - không có cách khác để sống nó. Chỉ qua nguy hiểm mà cuộc sống mới đạt tới trưởng thành, phát triển. Người ta cần là người phiêu lưu, bao giờ cũng sẵn sàng mạo hiểm cái đã biết vì cái không biết. Và một khi người ta đã nếm trải niềm vui của tự do và vô sợ hãi, người ta chẳng bao giờ hối hận bởi vì thế thì người ta biết việc sống ở mức tốt nhất nghĩa là gì. Thế thì người ta biết việc thắp lên ngọn đuốc cuộc sống của mình từ cả hai đầu nghĩa là gì. Và ngay cả một khoảnh khắc của sự mãnh liệt đó cũng làm hài lòng hơn toàn thể cái vĩnh hằng của việc sống tầm thường.